Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

…Chim Rừng Hợp Đàn Trên Khắp Bến Xuân

                          
                                                              
         Chu Thập
Tết 2010

Tôi sinh ra và lớn lên trong một miền của quê hương quanh năm chỉ có nắng cháy, một vài tháng mưa và một ít khí lạnh vừa đủ để các bà các cô khoe “áo ấm”. Ngoài một tháng Ba có thật nhiều ếch sau mùa gặt khô và cơn mưa giông đầu mùa và một tháng Mười có nhiều  gà béo tròn nhờ côn trùng ở đầu mùa mưa, quanh năm ngày tháng ở quê tôi cảnh vật chẳng có gì thay đổi. Với lũ trẻ chúng tôi, ngày nào tháng nào trong năm cũng đều là những ngày vui chơi trong vườn tược và ruộng đồng. Cây cối lúc nào cũng có lá và trái. Chim chóc lúc nào cũng có bấy nhiêu giống và bấy nhiêu tiếng hót.
Chưa có ý thức về sinh thái và cũng chẳng được ai dạy cho bài học về bảo vệ và yêu thích thiên nhiên, tôi vẫn có thể phân biệt được đủ mọi hình dáng, biết mọi tên và nghe được tiếng hót của mọi loài chim ở quê tôi.
Thời tiểu học, tôi vốn là một học sinh “dốt văn”. Làm một bài luận văn là cả một cực hình đối với tôi. Cứ phải “làm luận” thì hoặc là tôi chép của mấy đứa bạn lớn tuổi hơn hoặc là tôi cứ phải “thì là mà và” cho xong chuyện. Đừng nói đến câu cú, chính tả thì nghe sao, nói sao tôi viết vậy. Sau năm 1954, khi bắt đầu sống chung với mấy “thằng Bắc kỳ rốn”, tôi phục lăn. Chúng nó viết chính tả chẳng sai chữ nào: dấu hỏi, dấu ngã đâu ra đó. Tôi thì lúc nào cũng trật be trật bét, lại còn lẫn lộn giữa mấy cái tên: Hoàng và Hoàn, Quân và Huân, Quang và Hoan…nên lúc nào cũng phải hỏi lại: Hoàng có “dê” (g) hay không có “dê”? Hay Quân có “cu” (q) hay không có “cu”? Hỏi tới hỏi lui rồi viết sai vẫn sai đến độ tôi phải cố thuộc lòng: thằng Quang vừa có “q” lại vừa có “g” còn thằng Hoan thì vừa không có “q” lại vừa không có “g”, thằng Quân thì có “q” nhưng lại không có “g” …
Chính vì vậy mà về tên tuổi của chim chóc ở địa phương tôi thì cho tới nay, tôi vẫn chưa biết phải tra quyển tự điển nào để tìm. Người lớn gọi làm sao thì tôi biết vậy nhưng chẳng biết viết thế nào cho đúng. Có con chim “chàng ràng” luôn canh ở cổng vườn hay một khu rừng. Có con “trẩu trẩu” với bộ lông xanh chuyên làm tổ trong đất cát ở bờ sông. Có con “dù dì dủ dỉ” to như con bồ nông chuyên đậu trên gác chuông nhà thờ và chuyên đi săn về đêm. Có con chim “dẻ” nhỏ như con chim cút thường bị lũ trẻ chúng tôi dí vào trong bụi cây để bắt sống chứ không cần phải dùng ná để bắn. Có con “cúm núm” màu xám và to như con gà nước. Có con chim “bồ cắc cu” chuyên săn bắt gà con…Ngoài những con chim với tên gọi quen thuộc mà ở đâu cũng có, hình như quê tôi còn có cả một quyển tự điển “bất thành văn” riêng cho các giống chim đặc sản của mình.
Về tiếng chim hót thì khỏi nói, người dân quê tôi cũng có cái tai rất thính và rất “sáng tạo” để nghe tiếng chim. Không nghệ sĩ như ông Lâm Ngữ Đường để nghe ra giai điệu “đồ, mi, rê…sì” của giống chim giá cô ở miền núi phương Nam Trung Quốc, cũng chẳng giỏi sinh ngữ như tác giả Nguyễn Hiến Lê hay nhà văn Phan Lạc Phúc để nghe được tiếng hát bằng tiếng Pháp của một loài chim “bồ côi” ở miền Bắc Việt nam: “père, frère, mère, tout est perdu” (cha, anh, mẹ, mất cả rồi), quê tôi nghe tiếng chim như tiếng nói của con người trong cuộc sống hàng ngày. Có con chim ở ngoài ruộng chuyên gọi “Quớ thằng chăn vịt”. Có con chim chuyên chọc ghẹo “Năm cô một cậu”. Có con thì “bắt cô trói chặt”.
Quanh năm ngày tháng, ở quê tôi, có lẽ ngày nào cũng có thể là Mùa Xuân. Chẳng cần phải thấy chim én “đưa thoi” mới biết mùa Xuân trở lại. Nơi quê tôi, hễ có mạ xanh là có chim én.
Nhưng kể từ ngày xa quê hương, tôi mới thật sự cảm nhận được sự phong phú của cảnh vật nhờ sự thay đổi thời tiết.
Sống nơi xứ Úc, với thời tiết bốn mùa thay đổi, tôi có cái thú “rình” xem khi nào thì một mùa chấm dứt và mùa khác bắt đầu. Thú vị nhất là “rình” xem mùa Thu đến và mùa Đông ra đi. Sự chuyển mình thay đổi này có thể nhìn thấy khắp nơi trong vạn vật chứ không cần vào những thương xá theo dõi các mốt thời trang. Nhiều khi không cần “nhìn” tôi vẫn có thể cảm nhận được qua những giác quan khác. Từ những tiếng lá rơi xào xạc trên sân vườn cho đến hơi sương nhè nhẹ trong nắng mai. Từ ông mặt trời lười biếng ngủ vùi cho tới cảnh tám giờ đêm chưa thấy hoàng hôn. Từ những cơn gió ghê hồn rung rinh cửa nhà đến những cơn mưa phùn mong manh đến độ không ướt áo. Từ mùi phấn hoa làm hắt xì chảy mũi liên tục đến mùi khói cháy rừng cay mắt ngộp thở. Từ tiếng chim hót theo mùa cho đến tiếng ve kêu inh ỏi... “Mùa nào thức đó”, không sao lầm lẫn được.
Cái thú này không hề có khi tôi còn ở Việt Nam. Tôi quan sát và cảm nhận thời tiết như được khám phá một sự kỳ diệu của thiên nhiên. Trong những sự kỳ diệu đó, tiếng chim hót vào dịp Xuân về gây nhiều hưng phấn cho tôi nhất. Có loài chim chỉ mới hai ba giờ sáng đã bắt đầu cất tiếng hót. Cũng may, tiếng hót của nó lanh lảnh, dịu dàng chứ không hùng dũng như chàng gà trống mà tôi lỡ dại nuôi hồi năm ngoái. Nhiều khi tôi cũng lấy làm bất bình cho chú gà trống ở xứ Úc. Cũng là loài có cánh, cũng biết bay, biết “phát biểu ý kiến” như bao nhiêu giống chim khác. Vậy mà khi chú nổi hứng làm công việc của cái đồng hồ báo thức là không khéo khổ chủ phải “đối mặt” với mấy ông bà trong hội đồng địa phương. Tôi thật không hiểu nổi, trong khi người Úc tỏ ra “nhân đạo” quá đáng đối với súc vật mà lại bất công với chú. Một con chó bẹc-giê có thể ồm ồm sủa cả đêm mà chẳng ai “còm len”, hay người ta có thể vội vã mang xe chữa lửa đi để cứu một con mèo bị mắc kẹt giữa hai bức tường nhà...mà lại chẳng “nhân hậu” với chú gà trống. Có lẽ tại vì người Úc không mấy khi “tiếp cận” với gà còn sống mà chỉ biết gà BBQ, gà KFC, Red Rooster hay gà nướng than nổi tiếng của người Trung Đông.
Trở lại với tiếng hót của chim. Mùa Xuân là mùa chim chóc chộn rộn lo đủ mọi “công việc”. Có lẽ “công việc” quan trọng nhất của chúng là kết đôi và làm tổ. Cứ đúng ngày đầu Xuân là có một cặp chim én bay về làm ổ trong vườn nhà. Năm nào cũng vậy, sự trở lại của chúng khiến tôi tự hỏi: chỉ có một cặp hay là con cháu của chúng. Nếu là con cháu thì sao chúng cũng có bản năng đặc biệt như giống cá hồi. Loài chim “nối đuôi” cặp én là những con két đủ màu rực rỡ đặc biệt của Úc. Chúng nhiều không thể tả và hót vang trời. Hễ có một tiếng hót bên sườn núi này thì thế nào cũng có một tiếng đáp lại y hệt như vậy ở sườn núi bên kia. Chỉ sau vài ngày “hò hét” như vậy là bắt đầu xuất hiện từng cặp đi tìm chỗ xây tổ “uyên ương”. Cái lỗ hổng bên hông mái nhà của tôi thường là nơi các cặp vợ chồng két thích ngắm nghía. Bao giờ cũng vậy, một con chui vào quan sát một vòng rồi chui ra, không nói rằng, con kia cũng vào làm một vòng rồi chui ra. Không cần bàn bạc ồn ào, lôi thôi. Cũng không cần đến nhà băng hỏi mượn tiền mua nhà. Nếu thích, chúng sẽ bay đi và tha rơm về lót ổ ngay lập tức. Không thì chúng lại đi tìm chỗ khác.
Tiếng Việt của tôi đã tồi mà tiếng Anh cũng thuộc loại “ăn đong” nên tôi thường thích đặt tên cho các giống chim theo tiếng hót của chúng. Hình như tai tôi “có vấn đề” nên tiếng chim nào tôi cũng nghe như chúng đang dùng ngôn ngữ...loài người. Ngoại trừ Kookaburra có tiếng cười sang sảng của mấy tay lãng tử ra thì có khá nhiều giống chim hót ra câu ra “nghĩa”. Trước hết phải nói đến con chim “thợ hồ” mỗi sáng sớm khi những tia nắng Xuân vừa chạm đến rừng cây đã vội vàng thúc dục muôn loài bằng câu hót: “một xây hai cất, một xây hai cất”. Khi giống chim này dứt tiếng thì cũng là lúc bắt đầu bản hợp tấu của muôn ngàn tiếng chim khác. Đến khoảng tám giờ sáng thì “tình thế hỗn loạn” về âm thanh mới tạm êm dịu xuống để tôi có thể nghe được con chim “đa nghi” lên tiếng. Con chim này lúc nào cũng như một kẻ cả để “phán” những câu chắc nịch: “unbelievable, unbelievable!” Bao giờ cũng vậy, trong khi con “đa nghi” còn đang lải nhải thì bầy quạ đã cùng nhau chuẩn bị “đi học”. Thực vậy, quạ ở Úc không kêu “quạ, quạ, quạ...” như ở Việt nam mà “phát âm” rất rõ ràng: “A...Á...Ớ...” như trẻ em mẫu giáo tập học vần.
Nhưng giống chim làm cho tôi vui thích nhất phải là con “không lấy chồng đâu”. Ai đã nghe qua một lần đều thấy thật là thú vị. Nó luyến láy thanh âm “không lââấyyy chôôồng đâuuu...” không khác gì nữ ca sĩ Ái Vân hát dân ca quan họ. Cũng có lúc tôi nghe ra giọng Nam bộ của Như Quỳnh đầy vẻ nhõng nhẽo, ướt rượt: “Hổng lấy chồng đâu”. Câu hót của nó làm tôi liên tưởng đến cô thiếu nữ đi chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp. Miệng nói không lấy chồng nhưng ai nghe cũng phải hiểu ngược lại. Và thường thì khi nào cũng vậy, hễ một con hót thì đâu đó trong một góc rừng bao giờ cũng có tiếng đáp lại giống như một tiếng vang. Hai tiếng hót cứ đối qua lại như vậy cho tới khi im bặt là tôi biết lại có một đôi chim vừa “xứng đôi vừa lứa”. Chiều tối, tiếng chim lại cất lên một lần nữa để chúng tìm lại nhau và cùng bay về một hướng.
Thế nhưng chiều nay, con “không lấy chồng đâu” trên ngọn thông sau nhà hót đã khá lâu mà không có tiếng đáp trả. Bây giờ thì tôi hiểu nó thật sự không muốn lấy chồng. Tiếng của nó càng lúc càng thảm thiết không khác gì lời van xin của những người con gái bị ép gả. “Không lấy chồng đâu”: hình ảnh người con gái Afganistan bị cắt mũi và tai trên trang bìa tạp chí Time hôm nào...“Không lấy chồng đâu”: những cô gái Việt lấy chồng Nam Hàn, Đài Loan bị đọa đày...“Không lấy chồng đâu”: những người con gái bị lừa qua Trung Quốc làm vợ cho cả một gia đình...“Không lấy chồng đâu”: những cô dâu bị gia đình chồng hành hạ, giết chết vì không có của hồi môn...“Không lấy chồng đâu”: những cô gái là nạn nhân của những vụ “giết người vì danh dự”...
Bây giờ, con chim không còn hót nữa, nó chỉ kêu lên như bị đứt hơi: “chồng đâu, chồng đâu...” Tôi nghe mà thấy tội nghiệp cho nó. Trời đã tối hẳn, chắc chắn nó không thể bay kịp về tổ nữa rồi.
Nhưng nghĩ cũng thật là nghịch lý. Tại sao trong một khung cảnh mùa Xuân tươi đẹp thế này, tại sao giữa một thiên nhiên đầy màu sắc, mùi hương và sức sống như thế này, chỉ cần một tiếng chim kêu lạc bạn qua cái tai “thông dịch dzật” của tôi, mùa Xuân bị đẩy ra xa để bao nhiêu vấn nạn nhức nhối trong xã hội loài người lại “nhảy phóc” vào tâm tư? Như vậy chẳng lẽ tôi không cách nào có thể vui cùng thiên nhiên mà không bị vướng bận với những đau khổ của con người chăng?
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” Nguyễn Du viết thật chí lý. Dù tôi có chễm chệ “làm vua một vùng” trong chốn núi rừng, nhưng nếu tôi vẫn còn là một “công dân’ của cộng đồng nhân loại, tôi chẳng thể nào an vui khi biết rằng vẫn có nhiều người phải trải qua chiến tranh loạn lạc mà chưa hề có một ngày an vui.
Dù tôi chẳng hề bị điều gì khuấy động trong đời sống hằng ngày, nhưng nếu tôi không biết giữ gìn và bảo tồn đời sống thiên nhiên của thú rừng, cây rừng thì một ngày tôi cũng phải đương đầu với nạn thú rừng phẫn nộ về phá vườn như đang xảy ra ở quê hương tôi.
Dù tôi có hạnh phúc cách mấy, tôi cũng không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ trước những đau khổ, bất công mà những thành phần thấp bé trong xã hội phải gánh chịu, vì chính cái thiên nhiên đẹp đẽ là mùa Xuân trước mặt không ngừng nhắc nhở cho tôi rằng: Con người có giá trị hơn muôn chim ngàn hoa nhưng rất nhiều người đã không có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá của một con người.
Mùa Xuân, hoa Xuân và những đàn chim Xuân không những mang tôi đến gần với thiên nhiên mà còn dạy cho tôi rằng con người chỉ có thể sống an vui, hạnh phúc khi biết tôn trọng, yêu mến và hài hòa với nhau và với thiên nhiên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét