Chu Thập
Tết 2010
Tết 2010
Tôi sinh ra và lớn
lên trong một miền của quê hương quanh năm chỉ có nắng cháy, một vài tháng mưa
và một ít khí lạnh vừa đủ để các bà các cô khoe “áo ấm”. Ngoài một tháng Ba có
thật nhiều ếch sau mùa gặt khô và cơn mưa giông đầu mùa và một tháng Mười có
nhiều gà béo tròn nhờ côn trùng ở đầu
mùa mưa, quanh năm ngày tháng ở quê tôi cảnh vật chẳng có gì thay đổi. Với lũ
trẻ chúng tôi, ngày nào tháng nào trong năm cũng đều là những ngày vui chơi
trong vườn tược và ruộng đồng. Cây cối lúc nào cũng có lá và trái. Chim chóc
lúc nào cũng có bấy nhiêu giống và bấy nhiêu tiếng hót.
Chưa có ý thức về
sinh thái và cũng chẳng được ai dạy cho bài học về bảo vệ và yêu thích thiên
nhiên, tôi vẫn có thể phân biệt được đủ mọi hình dáng, biết mọi tên và nghe được
tiếng hót của mọi loài chim ở quê tôi.
Thời tiểu học,
tôi vốn là một học sinh “dốt văn”. Làm một bài luận văn là cả một cực hình đối
với tôi. Cứ phải “làm luận” thì hoặc là tôi chép của mấy đứa bạn lớn tuổi hơn
hoặc là tôi cứ phải “thì là mà và”
cho xong chuyện. Đừng nói đến câu cú, chính tả thì nghe sao, nói sao tôi viết vậy.
Sau năm 1954, khi bắt đầu sống chung với mấy “thằng Bắc kỳ rốn”, tôi phục lăn.
Chúng nó viết chính tả chẳng sai chữ nào: dấu hỏi, dấu ngã đâu ra đó. Tôi thì
lúc nào cũng trật be trật bét, lại còn lẫn lộn giữa mấy cái tên: Hoàng và Hoàn,
Quân và Huân, Quang và Hoan…nên lúc nào cũng phải hỏi lại: Hoàng có “dê” (g)
hay không có “dê”? Hay Quân có “cu” (q) hay không có “cu”? Hỏi tới hỏi lui rồi
viết sai vẫn sai đến độ tôi phải cố thuộc lòng: thằng Quang vừa có “q” lại vừa
có “g” còn thằng Hoan thì vừa không có “q” lại vừa không có “g”, thằng Quân thì
có “q” nhưng lại không có “g” …
Chính vì vậy mà
về tên tuổi của chim chóc ở địa phương tôi thì cho tới nay, tôi vẫn chưa biết
phải tra quyển tự điển nào để tìm. Người lớn gọi làm sao thì tôi biết vậy nhưng
chẳng biết viết thế nào cho đúng. Có con chim “chàng ràng” luôn canh ở cổng vườn hay một khu rừng. Có con “trẩu trẩu” với bộ lông xanh chuyên làm tổ
trong đất cát ở bờ sông. Có con “dù dì dủ
dỉ” to như con bồ nông chuyên đậu trên gác chuông nhà thờ và chuyên đi săn
về đêm. Có con chim “dẻ” nhỏ như con
chim cút thường bị lũ trẻ chúng tôi dí vào trong bụi cây để bắt sống chứ không
cần phải dùng ná để bắn. Có con “cúm núm”
màu xám và to như con gà nước. Có con chim “bồ
cắc cu” chuyên săn bắt gà con…Ngoài những con chim với tên gọi quen thuộc
mà ở đâu cũng có, hình như quê tôi còn có cả một quyển tự điển “bất thành văn” riêng
cho các giống chim đặc sản của mình.
Về tiếng chim
hót thì khỏi nói, người dân quê tôi cũng có cái tai rất thính và rất “sáng tạo”
để nghe tiếng chim. Không nghệ sĩ như ông Lâm Ngữ Đường để nghe ra giai điệu “đồ, mi, rê…sì” của giống chim giá cô ở miền núi phương Nam Trung Quốc, cũng chẳng
giỏi sinh ngữ như tác giả Nguyễn Hiến Lê hay nhà văn Phan Lạc Phúc để nghe được
tiếng hát bằng tiếng Pháp của một loài chim “bồ
côi” ở miền Bắc Việt nam: “père,
frère, mère, tout est perdu” (cha, anh, mẹ, mất cả rồi), quê tôi nghe tiếng
chim như tiếng nói của con người trong cuộc sống hàng ngày. Có con chim ở ngoài
ruộng chuyên gọi “Quớ thằng chăn vịt”.
Có con chim chuyên chọc ghẹo “Năm cô một
cậu”. Có con thì “bắt cô trói chặt”.
Quanh năm ngày
tháng, ở quê tôi, có lẽ ngày nào cũng có thể là Mùa Xuân. Chẳng cần phải thấy
chim én “đưa thoi” mới biết mùa Xuân trở lại. Nơi quê tôi, hễ có mạ xanh là có
chim én.
Nhưng kể từ ngày
xa quê hương, tôi mới thật sự cảm nhận được sự phong phú của cảnh vật nhờ sự
thay đổi thời tiết.
Sống nơi xứ Úc,
với thời tiết bốn mùa thay đổi, tôi có cái thú “rình” xem khi nào thì một mùa
chấm dứt và mùa khác bắt đầu. Thú vị nhất là “rình” xem mùa Thu đến và mùa Đông
ra đi. Sự chuyển mình thay đổi này có thể nhìn thấy khắp nơi trong vạn vật chứ
không cần vào những thương xá theo dõi các mốt thời trang. Nhiều khi không cần
“nhìn” tôi vẫn có thể cảm nhận được qua những giác quan khác. Từ những tiếng lá
rơi xào xạc trên sân vườn cho đến hơi sương nhè nhẹ trong nắng mai. Từ ông mặt
trời lười biếng ngủ vùi cho tới cảnh tám giờ đêm chưa thấy hoàng hôn. Từ những
cơn gió ghê hồn rung rinh cửa nhà đến những cơn mưa phùn mong manh đến độ không
ướt áo. Từ mùi phấn hoa làm hắt xì chảy mũi liên tục đến mùi khói cháy rừng cay
mắt ngộp thở. Từ tiếng chim hót theo mùa cho đến tiếng ve kêu inh ỏi... “Mùa
nào thức đó”, không sao lầm lẫn được.
Cái thú này
không hề có khi tôi còn ở Việt Nam. Tôi quan sát và cảm nhận thời tiết như được
khám phá một sự kỳ diệu của thiên nhiên. Trong những sự kỳ diệu đó, tiếng chim
hót vào dịp Xuân về gây nhiều hưng phấn cho tôi nhất. Có loài chim chỉ mới hai
ba giờ sáng đã bắt đầu cất tiếng hót. Cũng may, tiếng hót của nó lanh lảnh, dịu
dàng chứ không hùng dũng như chàng gà trống mà tôi lỡ dại nuôi hồi năm ngoái.
Nhiều khi tôi cũng lấy làm bất bình cho chú gà trống ở xứ Úc. Cũng là loài có
cánh, cũng biết bay, biết “phát biểu ý kiến” như bao nhiêu giống chim khác. Vậy
mà khi chú nổi hứng làm công việc của cái đồng hồ báo thức là không khéo khổ chủ
phải “đối mặt” với mấy ông bà trong hội đồng địa phương. Tôi thật không hiểu nổi,
trong khi người Úc tỏ ra “nhân đạo” quá đáng đối với súc vật mà lại bất công với
chú. Một con chó bẹc-giê có thể ồm ồm sủa cả đêm mà chẳng ai “còm len”, hay người
ta có thể vội vã mang xe chữa lửa đi để cứu một con mèo bị mắc kẹt giữa hai bức
tường nhà...mà lại chẳng “nhân hậu” với chú gà trống. Có lẽ tại vì người Úc
không mấy khi “tiếp cận” với gà còn sống mà chỉ biết gà BBQ, gà KFC, Red
Rooster hay gà nướng than nổi tiếng của người Trung Đông.
Trở lại với tiếng
hót của chim. Mùa Xuân là mùa chim chóc chộn rộn lo đủ mọi “công việc”. Có lẽ
“công việc” quan trọng nhất của chúng là kết đôi và làm tổ. Cứ đúng ngày đầu
Xuân là có một cặp chim én bay về làm ổ trong vườn nhà. Năm nào cũng vậy, sự trở
lại của chúng khiến tôi tự hỏi: chỉ có một cặp hay là con cháu của chúng. Nếu
là con cháu thì sao chúng cũng có bản năng đặc biệt như giống cá hồi. Loài chim
“nối đuôi” cặp én là những con két đủ màu rực rỡ đặc biệt của Úc. Chúng nhiều
không thể tả và hót vang trời. Hễ có một tiếng hót bên sườn núi này thì thế nào
cũng có một tiếng đáp lại y hệt như vậy ở sườn núi bên kia. Chỉ sau vài ngày
“hò hét” như vậy là bắt đầu xuất hiện từng cặp đi tìm chỗ xây tổ “uyên ương”.
Cái lỗ hổng bên hông mái nhà của tôi thường là nơi các cặp vợ chồng két thích
ngắm nghía. Bao giờ cũng vậy, một con chui vào quan sát một vòng rồi chui ra,
không nói rằng, con kia cũng vào làm một vòng rồi chui ra. Không cần bàn bạc ồn
ào, lôi thôi. Cũng không cần đến nhà băng hỏi mượn tiền mua nhà. Nếu thích,
chúng sẽ bay đi và tha rơm về lót ổ ngay lập tức. Không thì chúng lại đi tìm chỗ
khác.
Tiếng Việt của
tôi đã tồi mà tiếng Anh cũng thuộc loại “ăn đong” nên tôi thường thích đặt tên
cho các giống chim theo tiếng hót của chúng. Hình như tai tôi “có vấn đề” nên
tiếng chim nào tôi cũng nghe như chúng đang dùng ngôn ngữ...loài người. Ngoại
trừ Kookaburra có tiếng cười sang sảng của mấy tay lãng tử ra thì có khá nhiều
giống chim hót ra câu ra “nghĩa”. Trước hết phải nói đến con chim “thợ hồ” mỗi sáng sớm khi những tia nắng
Xuân vừa chạm đến rừng cây đã vội vàng thúc dục muôn loài bằng câu hót: “một xây hai cất, một xây hai cất”. Khi
giống chim này dứt tiếng thì cũng là lúc bắt đầu bản hợp tấu của muôn ngàn tiếng
chim khác. Đến khoảng tám giờ sáng thì “tình thế hỗn loạn” về âm thanh mới tạm
êm dịu xuống để tôi có thể nghe được con chim “đa nghi” lên tiếng. Con chim này lúc nào cũng như một kẻ cả để
“phán” những câu chắc nịch: “unbelievable,
unbelievable!” Bao giờ cũng vậy, trong khi con “đa nghi” còn đang lải nhải thì bầy quạ đã cùng nhau chuẩn bị “đi học”.
Thực vậy, quạ ở Úc không kêu “quạ, quạ,
quạ...” như ở Việt nam mà “phát âm” rất rõ ràng: “A...Á...Ớ...” như trẻ em mẫu giáo tập học vần.
Nhưng giống chim
làm cho tôi vui thích nhất phải là con “không
lấy chồng đâu”. Ai đã nghe qua một lần đều thấy thật là thú vị. Nó luyến
láy thanh âm “không lââấyyy chôôồng đâuuu...” không khác gì nữ ca sĩ Ái Vân hát
dân ca quan họ. Cũng có lúc tôi nghe ra giọng Nam bộ của Như Quỳnh đầy vẻ nhõng
nhẽo, ướt rượt: “Hổng lấy chồng đâu”.
Câu hót của nó làm tôi liên tưởng đến cô thiếu nữ đi chùa Hương trong thơ Nguyễn
Nhược Pháp. Miệng nói không lấy chồng nhưng ai nghe cũng phải hiểu ngược lại.
Và thường thì khi nào cũng vậy, hễ một con hót thì đâu đó trong một góc rừng
bao giờ cũng có tiếng đáp lại giống như một tiếng vang. Hai tiếng hót cứ đối
qua lại như vậy cho tới khi im bặt là tôi biết lại có một đôi chim vừa “xứng
đôi vừa lứa”. Chiều tối, tiếng chim lại cất lên một lần nữa để chúng tìm lại
nhau và cùng bay về một hướng.
Thế nhưng chiều
nay, con “không lấy chồng đâu” trên
ngọn thông sau nhà hót đã khá lâu mà không có tiếng đáp trả. Bây giờ thì tôi hiểu
nó thật sự không muốn lấy chồng. Tiếng của nó càng lúc càng thảm thiết không
khác gì lời van xin của những người con gái bị ép gả. “Không lấy chồng đâu”: hình ảnh người con gái Afganistan bị cắt mũi
và tai trên trang bìa tạp chí Time hôm nào...“Không lấy chồng đâu”: những cô gái Việt lấy chồng Nam Hàn, Đài
Loan bị đọa đày...“Không lấy chồng đâu”:
những người con gái bị lừa qua Trung Quốc làm vợ cho cả một gia đình...“Không lấy chồng đâu”: những cô dâu bị
gia đình chồng hành hạ, giết chết vì không có của hồi môn...“Không lấy chồng đâu”: những cô gái là nạn
nhân của những vụ “giết người vì danh dự”...
Bây giờ, con
chim không còn hót nữa, nó chỉ kêu lên như bị đứt hơi: “chồng đâu, chồng đâu...” Tôi nghe mà thấy tội nghiệp cho nó. Trời
đã tối hẳn, chắc chắn nó không thể bay kịp về tổ nữa rồi.
Nhưng nghĩ cũng
thật là nghịch lý. Tại sao trong một khung cảnh mùa Xuân tươi đẹp thế này, tại
sao giữa một thiên nhiên đầy màu sắc, mùi hương và sức sống như thế này, chỉ cần
một tiếng chim kêu lạc bạn qua cái tai “thông dịch dzật” của tôi, mùa Xuân bị đẩy
ra xa để bao nhiêu vấn nạn nhức nhối trong xã hội loài người lại “nhảy phóc”
vào tâm tư? Như vậy chẳng lẽ tôi không cách nào có thể vui cùng thiên nhiên mà
không bị vướng bận với những đau khổ của con người chăng?
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” Nguyễn Du viết
thật chí lý. Dù tôi có chễm chệ “làm vua một vùng” trong chốn núi rừng, nhưng nếu
tôi vẫn còn là một “công dân’ của cộng đồng nhân loại, tôi chẳng thể nào an vui
khi biết rằng vẫn có nhiều người phải trải qua chiến tranh loạn lạc mà chưa hề
có một ngày an vui.
Dù tôi chẳng hề
bị điều gì khuấy động trong đời sống hằng ngày, nhưng nếu tôi không biết giữ
gìn và bảo tồn đời sống thiên nhiên của thú rừng, cây rừng thì một ngày tôi
cũng phải đương đầu với nạn thú rừng phẫn nộ về phá vườn như đang xảy ra ở quê
hương tôi.
Dù tôi có hạnh
phúc cách mấy, tôi cũng không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ trước những đau khổ, bất
công mà những thành phần thấp bé trong xã hội phải gánh chịu, vì chính cái
thiên nhiên đẹp đẽ là mùa Xuân trước mặt không ngừng nhắc nhở cho tôi rằng: Con
người có giá trị hơn muôn chim ngàn hoa nhưng rất nhiều người đã không có được
một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá của một con người.
Mùa Xuân, hoa
Xuân và những đàn chim Xuân không những mang tôi đến gần với thiên nhiên mà còn
dạy cho tôi rằng con người chỉ có thể sống an vui, hạnh phúc khi biết tôn trọng,
yêu mến và hài hòa với nhau và với thiên nhiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét