Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

Giai nhân và dã thú



Chu Thập
4.9.12

Một ông bạn già vừa gởi đến một câu chuyện bảo là để “nghiền ngẫm”.
Một phụ nữ trong trang phục áo bằng vải len kẻ sọc và chồng bà trong bộ com lê giản dị đã mòn xơ cả chỉ, bước ra khỏi ga xe lửa ở thành phố Boston. Trong bước đi rụt rè, họ tìm đến văn phòng của đại học nổi tiếng Harvard mà không xin hẹn trước.
Người đàn ông nhỏ nhẹ ngỏ lời với cô thư ký: “Chúng tôi muốn gặp ông viện trưởng”.
Nhìn cách phục sức và dáng điệu thô kệch của cặp vợ chồng, cô thư ký gắt lên: “Ông ấy bận rộn cả ngày”.
Với sự kiên nhẫn có sẵn, người vợ bình tĩnh nói: “Chúng tôi sẽ đợi”.
Cô thư ký nghĩ bụng: sẽ cho họ chờ đợi cho đến khi nản lòng và bỏ đi. Nhưng rốt cục, kẻ thua cuộc lại chính là cô thư ký.  Vì không chịu đựng được chính sự kiên nhẫn của hai người khách lạ, cô đành phải đến quấy rầy ông viện trưởng. Dù cô thư ký nói rằng cặp vợ chồng này chỉ xin được gặp vài phút, ông viện trưởng cũng tỏ dấu khó chịu ra mặt, nhứt là khi nhận thấy những người muốn gặp mình lại ăn mặc tuềnh toàng như thế.
Người vợ trình bày: “Thưa ông viện trưởng, chúng tôi có một đứa con trai đã từng theo học ở trường đại học Harvard một năm. Nó thực sự yêu mến ngôi trường này. Thế nhưng, cách đây một năm, nó đột ngột bị giết chết. Và vợ chồng tôi rất muốn xây dựng một tấm bia để tưởng nhớ con trai mình ở một nơi nào đó trong khuôn viên đại học”.
Nghe như chuyện đùa, ông viện trưởng liền mỉa mai: “Thưa bà, chúng tôi không thể dựng tượng cho từng người đã theo học tại đây. Làm như thế thì trường này chẳng biến thành một nghĩa trang sao?”
Người phụ nữ nhanh chóng giải thích: “Ồ, không phải vậy đâu. Chúng tôi không có ý định xây dựng một bức tượng. Chúng tôi chỉ muốn xây một tòa nhà cho viện đại học thôi”.
Ông hiệu trưởng lại tròn xoe đôi mắt. Ông liếc nhìn chiếc áo thô sơ của người vợ và bộ com lê cũ mèm của người chồng rồi thốt lên: “Một tòa nhà ư? Ông bà có tưởng tượng được một tòa nhà trị giá bao nhiêu không? Chúng tôi phải đầu tư hơn 7 triệu rưỡi Mỹ kim để xây dựng trường Harvard này đấy”. Nói xong, ông tin tưởng là có thể thoát được cái của nợ trước mắt.
Người phụ nữ im lặng. Bà quay lại phía chồng và nói nhỏ: “Bắt đầu xây một trường đại học mà chỉ tốn có ngần ấy thôi sao? Tại sao chúng ta không xây một trường đại học riêng?”
Người chồng gật đầu đồng ý. Gương mặt của ông viện trưởng bỗng dài thượt ra vì bối rối và lúng túng.
Thì ra, cặp vợ chồng “nhà quê” này chính là ông bà Leland Stanford, một kỹ nghệ gia giàu có hồi cuối thế kỷ 19. Họ đã rời Boston để đến thành phố Palo Alto, tiểu bang California và lập nên một trường đại học nổi tiếng có tên là “Stanford”.
Kèm theo câu chuyện mà ông bạn già gởi đến cho tôi là rất nhiều lời bàn. Nhưng ông bạn già của tôi, vốn là một tín hữu Kitô, lại trích lời dạy của Chúa Giêsu: “Đừng nhìn bề ngoài mà đoán xét” (Tin mừng theo thánh Gioan 7,24) để nhắc khéo tôi.
Không những chỉ “nghiền ngẫm” như ông bạn già của tôi đề nghị, tôi cũng nhìn lại cái nhìn và cách xử sự của mình đối với người khác. Tôi thường bị thu hút bởi cái vẻ hào nhoáng bên ngoài đã đành, mà cũng vội vàng dựa vào một số định kiến để đánh giá về người khác. Người giàu sang lịch thiệp dễ được tôi tôn trọng. Người có tướng nghiện ngập dễ làm tôi e dè, tránh né. Nếu ở Phi trường Úc, các viên chức quan thuế thường chú ý tới người Á châu, thì leo lên máy bay, cũng như hai bà đầm trên chiếc máy bay trong cuốn phim “The Dictator” (nhà độc tài) của danh hài Sacha Baron Cohen, hễ thấy có bóng dánh của người Trung đông và nghe có tiếng Á rập là tôi thấy hơi...run. Đời là thế. Do bị điều kiện hóa bởi những thành kiến, con người dễ có khuynh hướng “chụp mũ” hay quơ đũa cả nắm.
Thật ra, sở dĩ tôi có dựa theo “bề ngoài” mà đoán xét người khác là bởi vì chính tôi dường như cũng không muốn chấp nhận và sống theo con người thật của mình. Một cách nào đó, dù không hoàn toàn cố ý, tôi cũng có nhiều mặt nạ. Tôi không muốn người khác thấy rõ bộ mặt thật của tôi đã đành, mà đôi lúa chính tôi cũng không muốn chấp nhận “chân dung” thật của mình.
Tôi có xem được một cuốn phim tài liệu có tựa đề “Giai nhân và Dã thú: bộ mặt xấu xí của thành kiến” (Beauty and the Beast: the ugly face of Prejudice) được trình chiếu trên đài truyền hình ABC2.  Adam Pearson là một sinh viên 25 tuổi tốt nghiệp từ trường quản trị kinh doanh thuộc đại học Brighton, Anh quốc. Anh mắc một chứng bệnh mà các nhà khoa học gọi là NF1 hay Neurofibromatosis. Chứng bệnh này làm cho các tế bào gia tăng một cách bừa bãi khiến cho thân thể con người trở thành dị tướng. Trong trường hợp của Adam, kể từ năm anh lên 5, sự phát triển bừa bãi của tế bào lại tập trung vào đầu và mặt. Một con mắt của anh bị mù hoàn toàn. Con mắt còn lại chỉ mở vừa đủ để anh nhìn thấy. Tai phải của anh cũng mất đến 40 phần trăm thính lực. Những biến chứng trên khuôn mặt của anh khiến anh trông chẳng khác nào một “Dã thú” (the Beast). Ở bậc tiểu học, anh đã từng là nạn nhân của không biết bao nhiêu vụ trêu chọc. Anh đã trải qua đến 27 lần phẫu thuật, một phần để giúp cho khuôn mặt trông bớt dị dạng, nhưng phần lớn để anh không bị mù lòa, câm điếc và chết ngạt vì khó thở.
Bên cạnh anh là “Giai nhân” (Beauty) Louisa Day, 21 tuổi, một nhân viên thẩm mỹ. Cô có một sắc đẹp tự nhiên nhưng lại không tin rằng mình đẹp. Cô gái này cho biết: kể từ năm 14 tuổi, cô không bao giờ ra khỏi nhà mà không trang điểm và mỗi lần trang điểm của cô kéo dài đến 2 tiếng đồng hồ. Tính ra mỗi năm cô tốn 7 tuần lễ cho chuyện trang điểm và làm đẹp. Đó là chưa kể đến không biết bao nhiêu lần cô gái trẻ này phải đến thẩm mỹ viện để được dao kéo cắt xén, mài dũa và bơm Botox.
Adam là tác giả của một cuốn sách có tựa đề “The challenge of facial disfigurement” (thách đố của một khuôn mặt dị dạng). Ngoài kinh nghiệm cá nhân, Adam cũng thu thập được những dữ kiện để viết sách nhờ cuộc gặp gỡ kéo dài một tuần lễ sống với Louisa. Thật vậy, hai người đã đồng ý đến sống với nhau trong một khách sạn. Tại đây cũng như qua những lần tham dự các cuộc vui chung, Adam đã có cơ hội quan sát được cách sống, những phản ứng, cách cư xử và những suy nghĩ của những người hoàn toàn lệ thuộc vào “phấn son” và giải phẩu thẩm mỹ như Louisa. Cuối cùng, do thái độ tự tin của “Dã Thú” Adam, “Giai nhân” Louisa đã vượt qua được  bức tường thành kiến do chính cô tự tạo ra cho bản thân để vứt bỏ mọi thứ phấn son tạo thành chiếc mặt nạ trên gương mặt của cô và dám xuất hiện trước đám đông với khuôn mặt thật của mình. Còn Adam thì vẫn tiếp tục sống với khuôn mặt “Dã thú”. Louisa đã được giải thoát khỏi mọi thứ mặt nạ cô đắp lên mặt mình. Cô đã dám sống bằng chính con người thật của mình chứ không phải “hình tượng” của một người khác.
Đúng như tiểu đề của cuốn phim tài liệu gợi lên, không có gương mặt con người nào là xấu xí cả, mà chỉ có “gương mặt xấu xí của thành kiến” mà thôi. Xấu đẹp là do thành kiến và cái nhìn xuất phát từ thành kiến. Vượt qua được bức tường thành kiến, con người không những thay đổi cái nhìn về người khác mà cũng có thể sống với con người thật của mình một cách tự tin hơn.
Tôi nghĩ đây cũng là bài học của câu chuyện thần tiên nguyên thủy “La Belle et la Bête” (Giai nhân và Dã thú) của nữ văn sĩ Pháp Gabrielle Suzanne Barbot de Villeneuve hồi thế kỷ 18. Câu chuyện mà có lẽ trẻ con trên khắp thế giới đều biết này đã gợi hứng cho không biết bao nhiêu truyện hoạt hình, phim ảnh. Câu chuyện được trẻ con ưa thích vì kết có hậu: hoàng tử bị biến thành “Dã thú” xấu xí vì đã không cho một bà tiên trú mưa và chỉ khi nào được một Giai nhân yêu thương thật sự bất luận dáng vẻ bên ngoài xấu xí của mình thì lời nguyền mới được tháo gỡ và hoàng tử mới hiện lại nguyên hình. Người lớn nào cũng thích kể câu chuyện thần tiên này cho trẻ con nghe để lồng vào một bài học làm người: bất cứ một hành động tử tế vô vị lợi nào cũng có sức biến đổi người khác và làm cho ta được nên người hơn. Ngược lại, bất cứ hành động ích kỷ nào tự nó cũng là một hình phạt cho bản thân. Con người bớt “người” hơn khi chỉ biết sống cho riêng mình. Đàng sau một “Giai nhân” xinh đẹp có khi là cả một thế giới của mưu mô, dối trá, lừa đảo, bất lương. Nhưng bên trong một “Dã thú” có khi lại ẩn tàng một quả tim vàng mà chỉ có  ánh mắt của con tim mới nhìn thấy.
Có lẽ anh em văn sĩ thường được mệnh danh là Brothers Grimm của Đức vào thế kỷ 19 cũng muốn nhắn gởi một thông điệp như thế trong bộ sưu tập truyển cổ của hai ông, đặc biệt  qua truyện “Hoàng tử Cóc”. Nội dung của truyện cổ tích này thì có lẽ ai cũng biết. Một công chúa chơi đùa bên một dòng suối bỗng làm rớt trái banh vàng của cô xuống nước. Nước sâu, cô không thể nào tìm lại được trái banh. Cô chỉ biết ngồi bệt xuống cỏ khóc và thầm thì khấn: nếu có ai giúp cô tìm lại được trái banh, cô sẽ tặng cho tất cả những gì cô đang có. Từ dòng suối, một con cóc xuất hiệu và hỏi cô công chúa tại sao cô khóc. Nghe chuyện, nó liền đề nghị: “Nếu cô thương tôi, cho tôi được sống với cô, ăn uống cùng bàn với cô và ngủ chung giường với cô thì tôi sẽ tìm lại trái banh cho cô”. Biết chắc là con cóc không thể nào rời bỏ dòng suối để vào cung điện cho nên cô công chúa đã hứa hẹn cho xong chuyện để nó tìm lại trái banh cho cô. Cho nên sau khi được con cóc mang trái banh lên trước mặt, nàng công chúa xinh đẹp tĩnh bơ nuốt lời hứa và đi về nhà một mình, mặc cho con cóc có van lơn.
Ngày hôm sau, cô công chúa không thể tin ở mắt mình: con cóc đã bò đến trước cung điện và nhắc lại lời hứa của cô. Cô không thể tưởng tượng mình có thể rước một con vật xấu xí và gớm ghiếc như thế vào cung điện. Nhưng do lời khuyên của vua cha là phải tuân giữ lời hứa của mình, cô công chúa cũng đành để cho con cóc vào nhà và cô phải thực thi những lời cam kết của mình như cho nó được ăn uống trên bàn, để nó ngủ chung giường với cô. Sang đêm thứ ba thì cô công chúa không còn thấy con cóc nữa. Thay vào đó là một hoàng tử khôi ngô tuấn tú.
Chàng hoàng tử mới giải thích cho cô công chúa rằng chàng đã bị một bà tiên hóa thành cóc và chàng chỉ có thể trở lại người thường khi nào có một công chúa ưng thuận cho cóc được ăn cùng bàn, ngủ cùng giường trong ba đêm liền...Chuyện thần tiên thì dĩ nhiên cũng kết thúc một cách thần tiên: công chúa và hoàng tử lấy nhau và sống hạnh phúc với nhau cho đến mãn đời. Tất cả đều nhờ ở một lời hứa được tuân giữ! Và tuân giữ lời hứa ở đây đối với cô công chúa chính là “gồng” mình yêu thương và cư xử tốt với một con cóc xấu xí!  Thằng người gỗ “Pinocchio” của ông Carlo Collodi chỉ cần bỏ tật nói dối cũng đủ để được làm người, huống chi là hành động tuân giữ lời hứa của một công chúa.

Với tôi chuyện thần tiên không chỉ có trong cổ tích hay chuyện kể cho trẻ con để chúng nhắm mắt đi vào mộng mơ. Những “chuyện cổ tích của thời hiện đại” không bao giờ thiếu.  Ở đâu có “phép mầu” thì ở đó có chuyện thần tiên. Và “phép mầu” thì lúc nào cũng có thể xảy ra trong cuộc sống con người: một cử chỉ nhân ái, một hành động tử tế, một cố gắng sống thật với chính mình...đó là bao nhiêu phép mầu giúp cho con người được “thoát xác” để bớt phần “dã thú” và tăng nét “giai nhân” hơn. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét