22.1.16

Bác sĩ Ken
Elliott và vợ ông, bà Jocelyn, xuất thân từ Perth, Tây Úc. Nhưng họ đã sống tại
thành phố Djibo, gần biên giới với Mali và Niger từ năm 1972.
Hai vợ chồng
bác sĩ Elliott đã có 3 người con. Hiện ông bà cũng đã trên 80 tuổi. Họ đã bị những
kẻ khủng bố bắt giữ gần thành phố Baraboule. Một phát ngôn viên của gia đình
ông bà Elliott cho biết hai ông bà đang điều hành một bệnh viện có tới 120 giường
bệnh, nhưng ông Elliott là bác sĩ duy nhất
trong bệnh viện. Từ năm 1972 đến nay, vì lúc nào cũng tận tụy phục vụ các bệnh
nhân, hai ông bà ít khi đi nghỉ hè.
Bác sĩ
Richard Lugg, người bạn học của bác sĩ Elliott tại trường y khoa thuộc Đại học
Tây Úc nói rằng ông là một người rất nhiệt tình và thân thiện; người dân
Burkina Faso lúc nào cũng kính trọng và quý mến hai vị ân nhân của họ.
Trước khi
sang phục vụ tại Burkina Faso, Bác sĩ Elliott đã từng làm việc tại Bệnh viện
Fremantle, Tây Úc và sau đó gia nhập Hội “Royal Flying Doctor Service” (Các y
sĩ chuyên di chuyển bằng máy bay để phục vụ tại các vùng hẻo lánh) tại
Kalgoorlie.
Đầu năm
1967, bác sĩ Elliott đến Benin, một quốc gia cũng nằm ở miền Tây Phi Châu. Tại
đây, ông đã mở lại một bệnh viện đã từng bị đóng cửa và làm việc ở đó 4 năm trước
khi chuyển sang Burkina Faso. Đều đặn 6 ngày một tuần, bác sĩ Elliott làm việc từ
5 đến 6 giờ mỗi ngày. Có quá nhiều nhu cầu và đôi khi ông phải đối phó với những
trường hợp khủng khiếp. Nhưng hầu như kết quả lúc nào cũng khả quan.
Trong một tập
san kỷ niệm 50 năm tốt nghiệp y khoa, Bác sĩ Elliott viết rằng Burkina Faso được
xếp hạng là một trong những ngước nghèo nhất trên thế giới.
Burkina Faso
là một quốc gia nằm ở Miền Tây lục địa Phi Châu, với diện tích rộng khoảng gần
300 ngàn cây số vuông và trên 17 triệu dân. Nhìn trên bản đồ, người ta thấy
Burkina Faso giáp giới với nhiều nước: phía Bắc có Mali, miền Đông có Niger, ở
mạn Đông nam có Benin. Ngoài ra, ở phía nam, Burkina Faso còn giáp giới với hai
nước Togo và Ghana. Ở phía Tây Nam còn có Côte d’Ivoire.
Trước kia,
quốc gia Tây Phi này có tên là Republic of Upper Volta (Cộng Hòa Thượng Volta).
Nhưng kể từ ngày 4 tháng 8 năm 1984, tổng thống lúc đó là ông Thomas Sankara đã
cho đổi tên thành Burkina Faso, nghĩa là “đất nước của những người lương thiện”.
Từng là đất
sống của nhiều bộ lạc khác nhau, vùng đất này chỉ được khai hóa từ đầu thập
niên 1890. Đây là thời điểm các sĩ quan Anh, Pháp và Đức bắt đầu tranh giành và
xâu xé vùng đất này. Có lúc những người thực dân hợp tác để chiến đấu chống lại
người dân bản địa. Có lúc họ cũng ký thỏa ước với người địa phương. Sau một loạt
những biến cố phức tạp với sự tham dự của nhiều lực lượng khác nhau, cuối cùng
vào năm 1896 Burkina Faso đã trở thành một nước bảo hộ của Pháp. Nhưng chỉ một
năm sau, lấy lý do có sự chống phá của một bộ lạc địa phương, Pháp đã đem quân
sang chiếm toàn bộ Burkina Faso và chính thức biến vùng đất này thành một thuộc
địa.
Năm 1898,
Pháp và Anh ký kết với nhau một Thỏa ước để thiết lập ranh giới mới cho đất nước
này. Pháp áp đặt Pháp ngữ thành ngôn ngữ chính thức của Burkina Faso và bổ nhiệm
những người thực dân Pháp vào những chức vụ quan trọng trong guồng máy hành
chính. Họ cũng cho mở một số trường và chọn những sinh viên ưu tú để gởi sang
du học tại Pháp.
Nhưng cũng
như tại nhiều thuộc địa khác trên thế giới, người dân địa phương cũng bắt đầu nổi
lên chống lại chính quyền thực dân. Chính phủ Pháp đã đàn áp dã man phong trào
nổi dậy của người dân Burkina Faso.
Năm 1919,
sau khi Burkina Faso đã được bình định,
Pháp đã biến nước này thành “Vùng Thượng
Volta của Pháp”. Vì sợ sẽ có những cuộc nổi dậy, chính phủ Pháp một mặt cho đẩy
mạnh kinh tế, mặt khác tìm cách tách Burkina Faso ra khỏi những vùng đất khác
cũng do Pháp cai trị như Senegal và Niger. Sau khi đã thiết lập biên giới,
chính phủ thuộc địa cho đặt tên vùng này là “Haute Volta” và đặt ông Charles
Alexis Edouard Hesling làm toàn quyền đầu tiên. Ông này liền bắt tay vào việc
xây dựng hạ tầng cơ sở, đặc biệt là đường sá để gia tăng việc xuất cảng bông vải.
Nhưng chính sách bông vải đã gặp thất bại. Vùng đất mà chính phủ thuộc địa Pháp
đặt tên là “Haute Volta” đã bị chia thành Côte d’Ivoire, Sudan và Niger. Sau Đệ
Nhị Thế chiến, chính phủ Pháp lại cho vẽ lại biên giới của các thuộc địa của
mình và Burkina Faso lấy lại tên “Vùng Thượng Volta”.
Mãi đến năm
1958, Pháp mới cho Burkina Faso được tự trị
và đặt tên là “Cộng Hòa Thượng Volta”. Quốc gia mới thành
lập này gia nhập Cộng Đồng Pháp - Phi như nhiều cựu thuộc địa khác của Pháp tại
Phi Châu. Được đặt tên là “Thượng Volta” vì quốc gia này nằm dọc theo dòng sông
Volta. Dòng sông này bắt nguồn từ ba nhánh được đặt tên là Đen, Trắng và Đỏ.
Chính vì vậy mà khi mới lập quốc, Burkina Faso đã đưa ba mầu này vào quốc kỳ của
mình.
Năm 1960,
Burkina Faso mới chính thức tuyên bố độc lập khỏi Pháp Quốc. Người đã từng làm
lãnh tụ của Liên Hiệp Dân Chủ Volta là ông Maurice Yamego lên làm tổng thống đầu
tiên của Burkina Faso. Hiến Pháp năm 1960 của Burkina Faso qui định rằng tổng
thống sẽ được bầu cử trong cuộc phổ thông đầu phiếu và nhiệm kỳ của Quốc hội nước
này kéo dài 5 năm. Nhưng không bao lâu sau khi lên cầm quyền, ông Yamego đã dẹp
mọi đảng phái chính trị khác. Chính vì vậy mà sinh viên, các nghiệp đoàn, công
nhân viên chức và dân chúng đã liên tục tổ chức các cuộc biểu tình chống chính
phủ. Cuối cùng quân đội đã phải can thiệp. Qua cuộc đảo chính năm 1966, quân đội
đã truất phế Tổng thống Yamego, ngưng thi hành hiến pháp và giải tán Quốc hội.
Người chỉ huy cuộc đảo chính là Trung tá Sangoulé Lamizana lên cầm quyền. Chính
quyền quân phiệt kéo dài được 4 năm. Năm 1970, một hiến pháp mới được phê chuẩn;
quân đội sẽ có 4 năm để chuẩn bị trao quyền lại cho chính phủ dân sự. Trung tá
Lamizana đã khéo léo dàn xếp để tiếp tục cầm quyền trong một chính phủ hỗn hợp
vừa quân phiệt vừa dân sự. Cuối cùng năm 1978, ông Lamizana mới chính thức tái
cử trong một cuộc bầu cử có tổ chức.
Nhưng năm
1980, ông Lamizana đã bị lật đổ trong một cuộc đảo chính không đổ máu. Một sĩ
quan khác là Trung tá Saye Zerbo lên thay. Cũng như người tiền nhiệm của ông, Trung
tá Zerbo gặp nhiều chống đối từ phía các nghiệp đoàn. Cho nên chỉ sau 2 năm cầm
quyền, ông Zerbo lại bị một sĩ quan khác là ông Jean Baptiste Quédraogo lật đổ.
Ông này lập ra Hội đồng Nhân dân Cứu Quốc và dẹp bỏ mọi đảng phái và tổ chức
chính trị. Nhưng trong nội bộ Hội đồng Nhân dân Cứu Quốc lại diễn ra nhiều
tranh chấp giữa hai phe tả hữu. Lãnh tụ cánh tả là Đại úy Thomas Sankara được bổ
nhiệm làm thủ tướng, nhưng chỉ một thời gian ngắn lại bị bắt giữ. Những cố gắng
giải thoát ông đã dẫn đến cuộc đảo chính năm 1983. Ông Sankara đã được phục hồi
và lên cầm quyền. Chính phủ của ông đã bắt đầu một loạt cải tổ đáng ca ngợi như
cho cổ võ việc chích ngừa, cải thiện hạ tầng cơ sở, nới rộng quyền của nữ giới,
khuyến khích tiêu thụ nông sản trong nước và đề ra những dự án chận đứng nạn sa
mạc hóa. Tất cả những cuộc cải cách của ông Sankara đã được tóm gọn trong tên gọi
mới của đất nước là Burkina Faso do ông đề xướng.
Được nước
làm tới, Tổng thống Sankara thành lập Hội đồng Quốc gia Cách mạng do ông làm chủ
tịch và các Ủy ban Bảo vệ Cách mạng để gọi là “động viên quần chúng” thực thi
các chương trình cải tổ của ông. Ông cũng đề ra chương trình giáo dục trẻ con
và thanh thiếu niên về lý tưởng Marxit. Và dĩ nhiên, song song với những chương
trình này, ông cũng mở chiến dịch truy lùng và càn quét những người bị tình
nghi phản cách mạng.
Cuộc cách mạng
của Tổng thống Sankara đã diễn ra trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh. Ông
thường xuyên thăm viếng Liên Xô và Cuba cũng như kêu gọi các nước Phi Châu quịt
nợ của các nước Tây Phương. Không những Pháp, Hoa Kỳ mà các nước láng giềng của
Burkina Faso đều tỏ ra quan ngại về con đường cách mạng được Tổng thống Sankara
mở ra cho đất nước mình. Dân chúng trong nước ngày càng bất mãn về con đường
cách mạng ngày càng hướng đến độc tài. Năm 1987, nại đến sự bất mãn của dân
chúng và các mối quan hệ ngày càng tồi tệ với các nước láng giềng, một cộng sự
viên lâu năm của Tổng thống Sankara là ông Blaise Compaoré đã thực hiện một cuộc
đảo chính qua đó ông Sankara và 12 viên chức chính phủ khác bị giết chết. Nhưng
cũng không hơn gì những người tiền nhiệm, ông Compaoré vẫn cứ tiếp tục đi theo
con đường mòn của độc tài. Năm 2014, sau 27 năm cai trị với bàn tay sắt của ông
Compaoré, dân chúng Burkina Faso đã xuống đường phản đối: họ chiếm đài truyền
hình quốc gia và đốt tòa nhà quốc hội. Tổng thống Compaoré buộc phải từ chức. Tình
hình chính trị tại Burkina Faso cứ thế mà rơi vào hỗn loạn. Mãi cho đến cuối
năm 2015, một cuộc bầu cử mới được tổ chức và ông Roch Marc Christian Kaboré đã
đắc cử tổng thống với trên 50 phần trăm số phiếu. Đây là lần thứ hai một người
không xuất thân từ quân đội lên làm tổng thống của quốc gia miền Tây Phi Châu
này.
Vì tình trạng
chính trị luôn bất ổn cho nên kinh tế của Burkina Faso luôn èo uột, mặc dù “đất
nước của những người lương thiện” ở miền Tây Phi Châu này có nhiều trữ lượng
vàng.
Ngoài tình
trạng chính trị bất ổn và kinh tế thấp kém, cuộc khủng bố mới xảy ra tại Thủ đô
Ouagadougou cũng cho thấy những những xung đột sắc tộc và tôn giáo tại Burkina
Faso. Thống kê chính thức của Burkina Faso cho biết có trên 60 phần trăm dân số
nước này theo Hồi giáo mà phần đông thuộc hệ phái Sunni; một số nhỏ theo hệ
phái Shiite. Cũng theo thống kê của chính phủ, khoảng 23 phần trăm dân số
Burkina Faso theo Kitô giáo, phần lớn là tín hữu Công giáo.
Hệ thống y tế tại nước này vẫn còn rất thô sơ. Tuổi thọ
trung bình của người dân không quá 60. Trung bình trong 100 ngàn người dân mới
có 10 bác sĩ. Không lạ gì Bác sĩ Elliott đã phải một mình phụ trách cả một bệnh
viện trên 100 giường bệnh. Nhưng đã lấy phục vụ và hy sinh cho người dân nghèo
làm lý tưởng, Bác sĩ Elliott và vợ ông đã chọn Burkina Faso làm quê hương thứ
hai của họ từ 40 năm nay. Họ xứng đáng được chọn làm “người Úc của Năm” trong dịp
Quốc Khánh này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét