Chu Thập,Tết 2010
Từ ngày bỏ nước ra đi, do không được sống gần các cộng đồng người Việt hải ngoại, tôi ít có dịp “mừng” những ngày Tết truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, mỗi dịp đầu năm Âm lịch, tôi cũng “ăn Tết” theo cách thế riêng của tôi.
Ngôn ngữ Việt
nam thật độc đáo: chúng ta không “cử hành” hay “mừng” ngày đầu năm, mà lại nói
“ăn tết”.
Ai cũng có quyền
tự hào về ngôn ngữ của dân tộc mình. Mỗi ngôn ngữ đều có cái “hồn” và nét độc
đáo riêng mà không một ngôn ngữ nào có thể thay thế được.
Một trong những
nét độc đáo của tiếng Việt hẳn phải là “âm điệu” của nó. Với tai người ngoại quốc,
thì người Việt nam nói nghe như “hát”. Lần đầu tiên ra chợ, nghe hai bà bán cá
cãi nhau, người ngoại quốc tưởng họ đang hát là chuyện có thật! Ngay cả khóc
lóc ở nghĩa trang mà cũng còn có vần có điệu nữa là!
Một tác giả (không
rõ là ngoại quốc hay Việt nam) ký tên là Rene Pazzi đã viết một cuốn sách có tựa
đề “Người Việt đáng yêu”, trong đó ông
nói đến tinh thần uyển chuyển và tế nhị của ngôn ngữ Việt như sau: “Ngôn ngữ Việt nam là ngôn ngữ duy nhất trên
thế giới có nhiều giọng điệu cung bậc…
Phải
nghe người dân mỗi miền, người Bắc, hay Trung, hay Nam hát những dân ca quen
thuộc với tiếng nói thuần túy và giọng thuần túy của họ, chúng ta mới thấy ý vị
của giọng nói ấy đậm đà chừng nào.
Sự
phong phú trong âm thanh lại được thay đổi qua nhiều miền đất của quê hương họ…
Nếu
phải tô mầu các giọng nói ấy, người ta có thể vẽ một bản đồ Việt nam thật đẹp.Có
miền mầu xanh, có miền mầu hồng, có miền mầu trắng, có miền mầu vàng, đấy là
chưa nói mức độ đậm lợt khác nhau…” (x. Doãn Quốc Sỹ, Người Việt đáng yêu)
Sau năm 75, nhiều
người đã có lý để nói rằng tiếng Việt đã bị “hãm hiếp” vì bị o ép đến độ mất đi
âm điệu của nó. Trước kia, người Việt đâu có nói cộc lốc như “ăn tốt”, “làm tốt”,
“học tốt”…mà luôn đệm vào đàng sau chữ “tốt” cái âm thanh “lành” “đẹp” cho nó
êm tai. Trước kia, người ta cũng chả nói “học sinh trai”, “học sinh gái”, “bộ đội
gái”… “Nam sinh, nữ sinh, nữ quân nhân” nghe nó chẳng êm tai và tôn trọng hơn
sao?
Về những từ hay
âm điệu được ghép vào chữ “ăn”, thì quả thật chẳng có ngôn ngữ nào phong phú
cho bằng tiếng Việt. Giở bất cứ quyển tự điển tiếng Việt nào, tôi cũng đếm được
gần 60 từ kép có chữ ăn: từ “ăn chay, ăn chận, ăn chẹt, ăn chơi, ăn gian, ăn hại
đến ăn mặc, ăn nằm, ăn sương, ăn nắng…”
Người Việt nam
quả có óc sáng tạo trong ngôn ngữ. Ngày nay ở Việt nam, ở đâu cũng thấy có hai
chữ “văn hóa”, từ khu phố văn hóa,
làng văn hóa, nhà văn hóa đến văn hóa ứng xử, văn hóa ăn uống, văn hóa chửi…Ngay
cả như chữ “ôm” cũng được cho “ôm”
vào bất cứ những gì có thể “ôm” được. Trước năm 75, người Việt nam chỉ nghe nói
đến “xe ôm” hay cùng lắm là “bia ôm”, nay lại có cả “thịt chó ôm”, “hớt tóc ôm”,
“ngủ trưa ôm”…đủ thứ “ôm”.
Nhưng đó là những
“sáng tạo” mới trong ngôn ngữ Việt nam. Riêng động từ “ăn” thì ngay từ ngàn
xưa, ông bà tổ tiên chúng ta đã biết chế biến để nó có thể đi với bất cứ từ
nào.
Trong bài viết
có tựa đề “Miếng ăn trong văn hóa Việt
nam” (xem Việt luận 20/10/09), nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc nói rằng
“hình như” “dân tộc Việt nam chỉ có một
ám ảnh lớn: Ăn”. Theo tác giả, bảo rằng văn hóa Việt nam quá coi trọng miếng
ăn thì có vẻ hơi kỳ nhưng không chừng đó lại là sự thật. Và tác giả đưa ra một
số bằng chứng cho luận đề của ông như: muốn truyền ngôi cho con, vua Hùng đã
cho tổ chức thi nấu ăn để xem người nào làm được món ăn ngon nhứt; ông Thánh Gióng
nhờ ăn mà lớn như thổi để, từ một đứa bé, biến thành một trang thanh niên khôi
ngô, dũng cảm; trong tín ngưỡng dân gian Việt nam, cúng, tức dọn món ăn cho người
chết, là chuyện rất phổ biến; ông thần được chú ý tới nhiều nhứt là Vua Bếp, tức
ông Táo…
Người Việt nam
quả “coi trọng” miếng ăn.
Hình ảnh tôi vẫn
giữ mãi trong ký ức của tuổi thơ đó là cảnh hàng hàng lớp lớp những bà mẹ quê
ngay từ sáng sớm đã gánh gồng đi qua hằng bao nhiêu cây số đến chợ, trao đổi,
mua bán để rồi mãi đến gần trưa mới trở về nhà lo miếng cơm cho chồng con. Suốt
một ngày sinh hoạt, người mẹ quê chỉ quanh quẩn trong xó bếp. Miếng ăn quả đã
chiếm hầu hết thời giờ của người dân quê. Người dân quê làm để có cái ăn và ăn
để có đủ sức làm. Lẩn quẩn trong cái vòng “ làm ăn” ấy cho nên có bảo rằng người
Việt nam “xem trọng” cái ăn cũng chẳng phải là “cường điệu” chút nào.
Tuy nhiên, lo
toan cho cái ăn, xem trọng cái ăn, nhưng người Việt nam vẫn luôn đề cao cảnh
giác bởi vì “miếng ăn là miếng tồi tàn”.
Xung quanh bàn ăn, ông bà tổ tiên chúng ta đã phát huy được một thứ minh triết
thật sâu sắc: chính xuyên qua cái ăn mà con người thể hiện tư cách làm người của
mình. Cái ăn, như tác giả Nguyễn Hưng Quốc ghi nhận, chỉ “cách xử thế”. Chính vì thế mà chúng ta mới nói đến chuyện “ăn trên ngồi trốc, ăn cháo đá bát, ăn xổi ở
thì hay cố đấm ăn xôi”. Vì tư
cách con người và cách đối nhân xử thế được thể hiện qua cái ăn và cách ăn, mà
ông bà tổ tiên chúng ta mới coi “học ăn” là bài học vỡ lòng quan trọng nhứt
trong các thứ học: học ăn rồi mới tới học nói, học gói, học mở…Lớn lên thì cũng
phải giữ ý tứ để biết “ăn coi nồi ngồi coi hướng”.
Vì cái ăn thể hiện
tư cách con người cho nên đối với ông bà tổ tiên chúng ta, bàn ăn, chỗ ăn, lúc
ăn đều được xem là “thánh thiêng”. Trời
đánh mà cũng phải tránh bữa ăn
thì đủ biết cái ăn của người Việt nam đáng trân trọng như thế nào. Ngồi xếp bằng
trên bộ ván gỗ, trên chõng tre, trên bàn ăn hay ngồi chồm hổm dưới đất, người
Việt nam qui tụ trong bữa ăn là để “chia sẻ” cho nhau. Một nhà thừa sai ngoại
quốc nọ nói rằng hình ảnh đẹp nhứt trong bữa ăn của người Việt nam chính là cái
cảnh mọi người cùng chấm chung một chén nước mắm, cùng xẻ chung một con cá
trong một dĩa, cùng chan chung một bát canh…Ăn thiết yếu là “ăn cùng”, “ăn với”
người khác cho nên ăn cũng là chia sẻ. Như một phép lạ, thức ăn của người Việt
nam xem ra chẳng bao giờ thiếu: một người khách lỡ độ đường ghé tạt vào nhà nhằm
đúng bữa ăn ư? Chỉ cần dọn thêm một cái chén, một đôi đũa là giải quyết được vấn
đề!
Ăn không chỉ là
chia sẻ thức ăn, mà là chia sẻ niềm vui với nhau. Cơm không lành canh không ngọt là điều chẳng ai muốn. Người Việt
nam thích vui vì được chia sẻ. Đi ruộng bắt được một con cá lóc, một con ếch, một
con rắn hay một con chuột cũng đủ để làm một món nhậu và mời ông bạn láng giềng
sang chung vui sau một ngày làm lụng vất vả. Kẹt lắm, một trái khế hay trái
xoài xanh cũng đủ để lai rai vài xị.
Quả thật, người
Việt nam thích sống vui. Cố linh mục Gildo
Dominici, người Ý có tên Việt nam là “Đỗ
Minh Trí”,đã từng làm việc tại Việt nam trước 75 và sau đó phục vụ trong
các trại tỵ nạn Galang, Nam Dương và Bataan, Phi luật tân. Trong tác phẩm có tựa
đề “Việt nam quê hương tôi”, vị linh
mục này đã viết về Ngày Tết của người Việt nam như sau: “Ngày Tết, không một người nào có vẻ nghèo cả! Mọi người đều có một
chút gì để mà “ăn Tết”. Người ta chấp nhận mang công mắc nợ để rồi sau đó sẽ vất
vả làm lụng để trả nợ, nhưng vào Ngày Tết người ta cần phải tận hưởng. Mọi người
đều có quyền ăn Tết”, mọi người đều cảm
thấy có bổn phận vui hưởng Tết.
Bị
vây hãm bởi chiến tranh, nghèo nàn và đau khổ, người ta mong chờ ngày Tết để được
sống thật sự vài ngày! Tết chính là cái khoảng thời gian kỳ diệu, chính là một
thời kỳ mà tất cả mọi người có thể thưởng thức được một chút gì hấp dẫn của kiếp
sống con người”.
Nêu lên câu hỏi:
“Vậy, sự quyến rũ của Ngày Tết bắt nguồn
từ đâu?” linh mục Dominici trả lời
: “Câu trả lời rất dễ dàng. Vẻ duyên dáng
quyến rũ của ngày Tết đã do chính người ta tạo ra! Ngày Tết rất dễ thương chính
là vì người Việt nam rất dễ thương...Người Việt nam đã tạo ra một ngày lễ để diễn
tả hình ảnh của chính con người họ. Không một điều gì khác hơn có thể diễn đạt
được tinh thần của người Việt nam bằng ngày Tết cả!
Tất
cả những người ngoại quốc đã từng sống ở Việt nam đều nhận thấy nơi con người
Việt nam có một cái gì lôi cuốn họ: tốt bụng, lịch thiệp, nhã nhặn, lễ phép, dễ
thương!”(x.
linh mục Dominici Đỗ Minh Trí , “Việt nam quê hương tôi”)
Đọc những dòng
trên đây, tôi cảm thấy hãnh diện, ấm lòng và nhứt là “vui như ba ngày Tết”. Thật vậy, chẳng có lúc nào vui cho bằng “ba
ngày Tết”, nhứt là đối với trẻ con. Trong những kỷ niệm của tuổi thơ, tôi vẫn
nhớ mãi những ngày Tết trước khi diễn ra cuộc đảo chánh sát hại cố tổng thống
Ngô Đình Diệm. Trước thập niên 60 và ngay cả những năm đầu của thập niên này,
khi các hàng rào ấp chiến lược chưa bị phá vỡ, các làng quê đã thực sự hưởng cảnh
thái bình: đêm đến không có giới nghiêm, người dân có thể vui chơi cả đêm. Người
dân quê vẫn còn lấy cả tháng Giêng để “ăn chơi”. Cả tháng, cứ đêm đến, trẻ con
chúng tôi đạp xe đạp đi từ làng này sang thôn khác để xem hát bài chòi. Có cả một
tháng vui chơi như thế là để nhắc nhở con người Việt nam lam lũ quanh năm vì
cái ăn rằng “con người được tạo dựng để
thụ hưởng niềm vui và hạnh phúc, chứ không phải để đau khổ và bất hạnh. Cuộc sống
của một dân tộc sẽ trở nên phong phú và nhân bản hơn nếu cái dáng dấp bi thảm của
khổ đau được quân bình với hân hoan và hạnh phúc” (x. linh mục Dominici trong “Việt nam quê hương tôi”).
Quân bình giữa
công việc và giải trí: đó là nét nổi bật trong cuộc sống của người Việt nam, mà
Tết là một biểu trưng. Như linh mục Dominici
giải thích: “Ngày xưa, trước lúc giao thiệp,
tiếp xúc với người Tây Phương, người Việt nam không biết đến ngày Chúa Nhựt,
nghĩa là một ngày nghỉ ngơi hằng tuần. Họ làm việc quần quật suốt 11 tháng mà
không ngưng nghỉ.Và ở vào một thời kỳ mà kỹ thuật chưa đạt được những tiến bộ
đáng kể, công việc lao động rất vất vả nhọc nhằn.Trong hoàn cảnh như thế, Tết
chính là một khoảng thời gian cần thiết để nghỉ ngơi.Tết khôi phục lại sự quân
bình trong cuộc sống và làm cho cuộc sống trở nên dễ chịu hơn”.
Chính nhờ thế
quân bình giữa cuộc sống vất vả và việc vui hưởng cuộc sống mà người Việt nam
xem ra có được một giây thần kinh rất vững chắc. Bất cứ người ngoại quốc nào phục
vụ trong các trại tỵ nạn Việt nam tại các nước đông nam Á từ cuối thập niên 70
đến đầu thập niên 90 cũng đều kinh ngạc về số lượng rất thấp những người bị rối
loạn tâm trí giữa một số lượng đông đảo
người tỵ nạn đang sống trong một tình cảnh bi đát. Linh mục Dominici tin rằng “sở dĩ có được điều này là do cái tâm tính
vui vẻ và thơ thới của người Việt, được biểu lộ một cách đặc biệt vào dịp Tết”.
Năm nay, cũng
như rất nhiều năm trong cuộc sống ly hương, tôi không biết thế nào là bánh
chưng, bánh tét, hay kẹo mứt.Trong nhà tôi cũng không có mâm quả “cầu dừa đủ xài”. Tôi cũng chưa bao giờ một
lần thưởng thức món “thịt mỡ dưa hành câu
đối Tết”. Còn cảnh “sân trước một
cành mai” thì chắc phải đến Tết Congo hay Maroc tôi mới có được ở nơi đất
khách quê người này. Nhưng cũng như mọi năm, năm nay tôi cũng “ăn Tết” theo cách thế của tôi: tôi sẽ cố
gắng tận hưởng từng khoảnh khắc hiện tại như một ân lộc Trời ban; tôi sẽ sống mỗi
ngày như một ngày Tết… Tôi nghĩ đó là bí quyết hạnh phúc mà ông bà tổ tiên tôi
muốn để lại cho con cháu khi “bày ra Tết
Nhứt”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét