Chu Thập
23.06.11
.jpg)
Dân gian thường nói: trong cái
rủi có cái may. Kitô giáo gọi đó là Quan Phòng. Tôi luôn tin rằng trong cõi vô
thường sinh diệt diệt sinh này, không có gì là tuyệt đối mất mát. Có lúc tưởng
như tuyệt vọng thì lại gặp được chiếc phao cứu hộ. Những khi tưởng là cùng đường
thì lại thấy lóe lên ánh sáng. Chuyện mình chẳng mong ước và tính toán thì lại
xảy đến. Chuyến đi Tân tây lan của tôi nằm trong chuỗi những “quan phòng” mà
tôi thường bắt gặp trong cuộc sống.
Trước khi viếng thăm một vùng
đất mới, tôi thường tìm hiểu sơ qua về địa lý, lịch sử cũng như phong tục của
người dân ở đó. Thực ra, từ lâu, tôi vẫn nghĩ rằng về đất đai, phong cảnh, xã hội,
chính trị…Tân tây lan cũng chỉ là một “cánh tay nối dài” của Úc đại lợi. Bằng
chứng là trước đây, người dân hai nước qua lại như đi chợ, muốn ở đâu thì ở mà
vẫn hưởng đủ mọi quyền lợi. Nếu có khác biệt, cùng lắm ở Úc thì có nhiều người
thổ dân, còn bên Tây tây lan thì có nhiều người Maori với cách chào hỏi xã giao
độc đáo là áp hai đầu mũi vào với nhau. Mới đây tôi thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma,
nhà lãnh đạo tinh thần của Tây tạng, nhân một chuyến viếng thăm Melbourne, đã lập
lại cử chỉ đó một cách thật dễ thương với một cầu thủ AFL. Vừa rồi, tôi cũng bị
cám dỗ muốn thử xem cái cảm giác đó thế nào, nhưng gặp trời mưa gió bão bùng,
nước mắt nước mũi chảy liên tục, cho nên tôi sợ không dám truyền cúm Úc cho người
dân “Kiwi” hoặc ngược lại rước một thứ bệnh mà cái thân còm cõi của mình không
chịu đựng nổi.
Khác với Úc, bên Tây tây lan
đi đâu cũng thấy dân Maori. Vậy mà từ khách sạn đưa tôi lên thành phố Auckland,
anh tài xế taxi Ấn độ tiên đoán một cách mỉa mai rằng dân Maori sắp bị trở
thành giống dân “quý hiếm”, vì theo ông, người dân kỳ cựu của đất nước này chỉ
biết nhậu nhẹt, ăn quá nhiều cho nên phì nộn và mang đủ thứ bệnh. Đọc báo địa
phương, tôi cũng thấy nói rằng 50 phần trăm trẻ em đang được bộ xã hội chăm sóc
vì gia đình đổ vỡ đều là người Maori.
Nghĩ thật tội nghiệp cho người
bản xứ “Kiwi” này. Có lẽ trước khi người da trắng đặt chân đến đây, người Maori
chỉ biết vui hưởng cuộc sống bằng săn cá, ăn thịt thú rừng và khoai môn “taro”.
Họ làm gì biết thuốc lá và nhứt là rượu bia. Ngoài ra, trong một lần viếng thăm
bảo tàng viện ở thủ đô Wellington, tôi cũng biết rằng trước khi người da trắng
xâm chiếm vùng đất này, toàn bộ đất đai ở đây đều được bao phủ bởi những rừng
cây xanh. Vậy mà chỉ mới 200 năm sau khi bị dấu chân của người da trắng cày xéo,
hơn hai phần ba màu xanh ấy đã biến mất.
Dù vậy, trên chuyến xe buýt từ
Auckland đến thủ đô Wellington, tôi vẫn nhận ra sự khác biệt rõ ràng giữa Úc đại
lợi và Tân tây lan. Ở Úc, đi đâu người ta cũng chỉ thấy những cánh đồng cỏ
cháy, nứt nẻ và nhứt là những rừng tràm (gum trees). Trái lại, bên Tây tây lan,
dầu gặp những ngày mưa xám xịt, màu xanh ngát của những cánh đồng cỏ và đồi
thông bất tận vẫn làm cho phong cảnh đẹp như tranh vẽ. Tôi mê ngay cái đất nước
này. Suốt lộ trình hơn mười tiếng, tôi không dám chợp mắt. Lâu lắm rồi tôi mới
được “rửa mắt” đã đời như vậy.
Đi du lịch, tôi thích khám phá
những cái mới, nhưng cũng muốn sống lại những cái cũ. Chẳng hạn, lần đầu tiên
khi đến Pháp vào giữa mùa Thu, tôi đã ngây ngất đứng nhìn nước sông Seine chảy
lững lờ giữa thủ đô Paris hay ngắm nhìn rừng phong thay mầu rụng lá. Đây là những
bức tranh mà tôi đã từng chiêm ngưỡng trong sách vở ở thời trung học và ao ước
được một lần chìm đắm trong đó. Thành ra, mặc dù đến một nơi mình chưa từng đặt
chân tới, tôi vẫn có cảm giác quen thuộc. Tôi sung sướng như thể được trở về chốn
cũ.
Những cánh đồng cỏ và những đồi
thông xanh ngát của núi rừng Tây tây lan cũng mang lại cho tôi cái cảm giác ấy.
Tôi không chỉ nhớ lại cái quang cảnh này ở một số nước Âu Châu. Nó còn đưa tôi
trở về một chốn cũ xa xăm hơn. Tôi muốn nói tới Đà Lạt thân yêu ngày xưa của
tôi. Tôi có nghe nói tới núi rừng Sapa ngoài Bắc. Nhưng tôi chưa mường tượng được
cảnh núi rừng ấy như thế nào. Còn về Đà lạt thì tôi thuộc như in từng góc phố, từng
con đường và nhứt là những đồi thông. Cảnh trí của Tây tây lan đã làm sống lại
trong tôi không biết bao nhiêu kỷ niệm về thành phố mộng mơ ấy.
Thời đó, ở tuổi đôi mươi và nhứt
là sinh ra nơi chốn đồng chua nước mặn, với tôi được lên Đà Lạt chẳng khác nào
sang Paris. Người ta bảo Đà Lạt là thành phố của Tây mà. Tôi vẫn nhớ mãi, lần đầu
tiên khi chiếc xe đò “Minh Trung” từ Nha Trang, qua khỏi Sông Pha, ì ạch trườn
lên đèo “Ngoạn mục” cho tới Đơn Dương và bắt đầu leo lên tới “Eo gió”, tôi thấy
như mình đang đi lạc vào một thế giới
khác. Gió mát rượi thổi vào chiếc xe chật ních làm cho hành khách cảm thấy thoải
mái và quên đi cái cảnh bó rọ mà mình phải trải qua đến cả 4,5 tiếng đồng hồ liền.
Đến khi chiếc xe đò lên đến Trại Mát, Trại Hầm và chạy dọc theo con đường Gia
Long thì khỏi nói: tôi cứ ngẩn ngơ như Từ Thức lạc vào động tiên. Ẩn khuất
trong những rừng thông là những ngôi biệt thự mà tôi chỉ nghe tả trong sách vở
và cả đời chẳng bao giờ dám mơ được đặt chân vào.
Tôi không biết còn có một ngày
nào để trở về “chốn cũ” và được làm một Thanh Tuyền “đứng trên triền núi nhìn xuống đồi thông” không hay như Hàn Mặc Tử
đứng nhìn “trăng mờ thật huyền mơ” và
để “nghe dưới đáy nước hồ reo” hay không.
Một tuần lễ lang thang ở Tân
tây lan đã cho tôi sống lại những kỷ niệm đẹp ở Đà Lạt và nhứt là “nhớ nhà”.
Trong phong cảnh của núi rừng Tân tây lan, tôi không chỉ được hồi tưởng lại
hình ảnh Đà lạt qua vườn cây đồi cỏ, những con suối chảy róc rách, những ngọn
thác bên cạnh rừng thông, mà còn được chiêm ngưỡng những mái nhà bé nhỏ chênh
vênh bên sườn đồi hay thảnh thơi giữa nông trại mênh mông với bầy trừu bò đông
vô số kể. Thực vậy, cảnh đẹp thường được tăng thêm nhờ có sự hiện diện của con
người. Chẳng phải bức tranh đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan trở nên nổi tiếng
là bởi “lác đác bên sông chợ mấy nhà” sao?
Mà nhà ở thì thiên hình vạn trạng.
Ban ngày, tôi thường ngắm căn nhà như ngắm một món đồ. Thế nhưng trong bóng đêm,
căn nhà không còn thu hút tôi vì kích thước hay giá trị của nó, mà chính là
chút ánh đèn lách qua khung cửa hay một vạt khói lửng lơ trên ống khói. Hình
như cái ánh đèn, sự ấm cúng mời gọi của một cái bếp tỏa khói luôn làm cho người
ta cố nhanh bước về nhà. Tôi cũng vậy, mỗi khi được về thăm nhà, chuyến xe đò đến
bến bao giờ cũng chập tối, tôi chỉ muốn chạy như bay về nhà.
Ngôi nhà từ đường của tôi đúng
là “cái nhà là nhà của ta, ông cố ông cha
làm ra”. Tôi nghĩ cái tuổi của ngôi nhà ấy tính cho đến nay không dưới 200
năm. Nhà được lợp bằng thứ ngói mà cha tôi gọi là “ngói mốc”. Khi tôi có trí
khôn thì toàn bộ mái nhà đã rệu rạo, tường nhà vốn được làm bằng gạch gắn liền
với nhau bằng một loại vữa có trộn đường đen cũng đã bắt đầu xuống cấp; cột kèo
rui mè, mặc dù được làm bằng gỗ quý cũng đã bị mối mọt gậm nhấm gần hết. Giữa
thập niên 1960 khi tôi vừa xong bậc trung học, cha tôi đành phải mang tội “bất
hiếu” với ông bà để cho phá sập ngôi nhà từ đường và xây nhà mới. Vì lý do kinh
tế và tình cảm, cha tôi cũng giữ lại nhiều vật liệu từ ngôi nhà cũ và dùng lại.
Nhà mới có phần khang trang rộng rãi hơn, nhưng với tôi dường như nó không còn
giữ được cái hơi ấm của ngôi nhà từ đường, nơi anh chị em và ngay cả nhiều đứa
cháu của tôi đã từng chen chúc nhau trong cùng một “buồng”, ngủ chung trên cùng
một chiếc giường.
Quả thực, con người quyến luyến
ngôi nhà của mình không hẳn vì nó đẹp đẽ, sang trọng hay tiện nghi, mà vì nó có
cái “hồn” của nó. Căn nhà cũng thường tiết lộ cho người ta biết khá nhiều về đời
sống, tính tình, ý thích…của những người đang cư ngụ. Có người chọn nhà gần chỗ
làm để tiết kiệm thời gian. Người khác lại muốn căn nhà như một nơi chốn yên
tĩnh sau một ngày làm việc dù phải đi xa khỏi thành phố. Cũng có khi ngôi nhà
được chọn vì cái tên của con đường hay vì sự “môn đăng hộ đối” của những căn
nhà bên cạnh. Mỗi người một chọn lựa theo cách riêng. Riêng tôi, hình ảnh ngôi
nhà thường phải kèm theo một phong cảnh thích hợp và thơ mộng. Bởi vì khi về
nhà, đối với tôi cũng giống như tạm ngưng tiếp xúc với thế giới bên ngoài để được
hưởng cái cảnh “một gian nhà nhỏ đi về có
nhau”. Chính vì vậy mà mái tranh nghèo của sư bà Giác Duyên trong Truyện Kiều
luôn là giấc mộng cuối đời của tôi: “Đánh
tranh lợp mái thảo đường, một gian nước biếc, mây vàng chia đôi”. Cảm tạ Ơn
Trên, tuy không được như sư bà Giác Duyên, tôi cũng được hưởng cảnh núi rừng
lúc hừng đông và chiều vàng trên sóng nước.
Gần nơi tôi ở có khá nhiều nhà
thuộc diện “holiday house”. Chủ nhân của nó mua để một năm vài lần ghé qua mấy
đêm. Mỗi lần đi ngang qua, tôi thấy thương hại cho chúng. Đó thường là những
căn biệt thự mênh mông, tọa lạc ở những vị trí tuyệt đẹp gần bờ nước. Tôi không
biết có bao giờ chủ nhân của chúng bỏ giờ đứng “rình” một đêm bên ngoài căn nhà
to lớn tối om, lạnh lùng không một chút sinh khí nào không? Nếu chúng cũng có cảm
giác như con người, chắc là chúng sẽ thấy đau khổ và ghen tức với những căn nhà
lẹp xẹp nhưng ấm áp bên cạnh. Đó mới thật là “mái ấm”, mới thật là “home, sweet
home”. Không cần làm thầy “phong thủy” tôi luôn tin rằng một căn nhà có quá nhiều
phòng trống thì khó có thể gọi là mái ấm được.
Mặc dù thích đi chơi nhưng cứ
sau vài ngày xa nhà là tôi bắt đầu thấy nhớ nhà. Mà hình như tôi “viện cớ” nhớ
nhà để nhớ những thứ “lỉnh kỉnh” khác. Trước hết tôi nhớ cái giường quen thuộc,
nhớ những bữa ăn đơn giản không theo kiểu sơn hào hải vị hay “cơm đường cháo chợ”.
Tôi lại thấy nhớ những tiếng gà vịt quen thuộc đánh thức tôi dậy, tiếng chim
hót chào một ngày mới. Tôi nhớ những sinh hoạt thường nhựt, những cặm cụi mà có
lúc tôi nghĩ là “chịu hết nổi”. Tôi nhớ những buổi chiều đi dạo, những chào hỏi
người này người kia dù chưa bao giờ bắt chuyện…Hết nhớ bắt đầu tôi lại thấy…lo!
Nhìn mưa gió Tân tây lan mà lo không biết vịt con có bị lạnh, rau cải có bị dập
hay không? Cửa nẻo đã khóa kỹ chưa hay còn để quên cái bếp? Tôi biết mình “lo
bò trắng răng” nhưng vẫn vẩn vơ lo.
Cái bệnh “home sick” bất trị của
tôi chắc chắn chỉ có một nguyên nhân: cái nhà, nơi “trú ẩn” tốt nhứt của tôi,
cũng chính là một phần tinh thần rất quan trọng nuôi dưỡng tâm hồn tôi. Căn nhà
cũng là “nhân chứng” sống động nhất nhìn thấy được đời sống nội tâm của tôi. Niềm
quyến luyến ngôi nhà cũng chính là biểu hiện của sự yêu mến chính tâm hồn, đời
sống và gia đình riêng của mình trong mỗi người vậy.
Quả là vui khi được đi chơi và
lại vui hơn mỗi khi trở về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét