Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

Thảo Đường


Chu Thập
23.06.11



Tôi chọn nước Úc làm quê hương, nhưng sau một chuyến đi Tân tây lan, tôi lại “mê” cái đất nước này. Thực ra, chuyến đi không nằm trong dự tính của tôi. Số là đầu năm, thấy Jetstar hạ giá vé quốc nội, tôi định làm một vòng cho hết nước Úc nên đặt vé đi Darwin. Nhưng gần đến ngày đi, thấy tim mạch của tôi có vẻ không ổn, bác sĩ khuyên tôi không nên đi xa, nhứt là đi máy bay. “Tra” tử vi thấy không có lời đe dọa nào về chuyện có nên “xuất hành” hay không, tôi định phớt lờ lời cảnh cáo của ông bác sĩ. Nhưng nghĩ lại, ở trong đất nước này mà giỡn mặt với những gì có liên quan đến chuyện sức khỏe y tế là liều lĩnh, cho nên tôi đành phải hoãn chuyến đi và gởi giấy chứng nhận của bác sĩ đến hãng máy bay để xin hoàn lại tiền vé. Nhưng đã tiền trao cháo múc rồi cho nên hãng Jetstar đâu có chịu. Họ buộc tôi phải “book” một chỗ khác với giá tương đương, bằng không thì xem như “xung vào công quỹ quốc gia”. Lục lạo tìm kiếm mãi mới thấy giá vé đi Tân tây lan cũng bằng đi Darwin, tôi đành phải bất đắc dĩ thay đổi lộ trình và chờ đến gần 6 tháng sau mới được bác sĩ chứng nhận “đầy đủ sức khỏe” để làm một chuyến đi xa.
Dân gian thường nói: trong cái rủi có cái may. Kitô giáo gọi đó là Quan Phòng. Tôi luôn tin rằng trong cõi vô thường sinh diệt diệt sinh này, không có gì là tuyệt đối mất mát. Có lúc tưởng như tuyệt vọng thì lại gặp được chiếc phao cứu hộ. Những khi tưởng là cùng đường thì lại thấy lóe lên ánh sáng. Chuyện mình chẳng mong ước và tính toán thì lại xảy đến. Chuyến đi Tân tây lan của tôi nằm trong chuỗi những “quan phòng” mà tôi thường bắt gặp trong cuộc sống.
Trước khi viếng thăm một vùng đất mới, tôi thường tìm hiểu sơ qua về địa lý, lịch sử cũng như phong tục của người dân ở đó. Thực ra, từ lâu, tôi vẫn nghĩ rằng về đất đai, phong cảnh, xã hội, chính trị…Tân tây lan cũng chỉ là một “cánh tay nối dài” của Úc đại lợi. Bằng chứng là trước đây, người dân hai nước qua lại như đi chợ, muốn ở đâu thì ở mà vẫn hưởng đủ mọi quyền lợi. Nếu có khác biệt, cùng lắm ở Úc thì có nhiều người thổ dân, còn bên Tây tây lan thì có nhiều người Maori với cách chào hỏi xã giao độc đáo là áp hai đầu mũi vào với nhau. Mới đây tôi thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây tạng, nhân một chuyến viếng thăm Melbourne, đã lập lại cử chỉ đó một cách thật dễ thương với một cầu thủ AFL. Vừa rồi, tôi cũng bị cám dỗ muốn thử xem cái cảm giác đó thế nào, nhưng gặp trời mưa gió bão bùng, nước mắt nước mũi chảy liên tục, cho nên tôi sợ không dám truyền cúm Úc cho người dân “Kiwi” hoặc ngược lại rước một thứ bệnh mà cái thân còm cõi của mình không chịu đựng nổi.
Khác với Úc, bên Tây tây lan đi đâu cũng thấy dân Maori. Vậy mà từ khách sạn đưa tôi lên thành phố Auckland, anh tài xế taxi Ấn độ tiên đoán một cách mỉa mai rằng dân Maori sắp bị trở thành giống dân “quý hiếm”, vì theo ông, người dân kỳ cựu của đất nước này chỉ biết nhậu nhẹt, ăn quá nhiều cho nên phì nộn và mang đủ thứ bệnh. Đọc báo địa phương, tôi cũng thấy nói rằng 50 phần trăm trẻ em đang được bộ xã hội chăm sóc vì gia đình đổ vỡ đều là người Maori.
Nghĩ thật tội nghiệp cho người bản xứ “Kiwi” này. Có lẽ trước khi người da trắng đặt chân đến đây, người Maori chỉ biết vui hưởng cuộc sống bằng săn cá, ăn thịt thú rừng và khoai môn “taro”. Họ làm gì biết thuốc lá và nhứt là rượu bia. Ngoài ra, trong một lần viếng thăm bảo tàng viện ở thủ đô Wellington, tôi cũng biết rằng trước khi người da trắng xâm chiếm vùng đất này, toàn bộ đất đai ở đây đều được bao phủ bởi những rừng cây xanh. Vậy mà chỉ mới 200 năm sau khi bị dấu chân của người da trắng cày xéo, hơn hai phần ba màu xanh ấy đã biến mất.
Dù vậy, trên chuyến xe buýt từ Auckland đến thủ đô Wellington, tôi vẫn nhận ra sự khác biệt rõ ràng giữa Úc đại lợi và Tân tây lan. Ở Úc, đi đâu người ta cũng chỉ thấy những cánh đồng cỏ cháy, nứt nẻ và nhứt là những rừng tràm (gum trees). Trái lại, bên Tây tây lan, dầu gặp những ngày mưa xám xịt, màu xanh ngát của những cánh đồng cỏ và đồi thông bất tận vẫn làm cho phong cảnh đẹp như tranh vẽ. Tôi mê ngay cái đất nước này. Suốt lộ trình hơn mười tiếng, tôi không dám chợp mắt. Lâu lắm rồi tôi mới được “rửa mắt” đã đời như vậy.
Đi du lịch, tôi thích khám phá những cái mới, nhưng cũng muốn sống lại những cái cũ. Chẳng hạn, lần đầu tiên khi đến Pháp vào giữa mùa Thu, tôi đã ngây ngất đứng nhìn nước sông Seine chảy lững lờ giữa thủ đô Paris hay ngắm nhìn rừng phong thay mầu rụng lá. Đây là những bức tranh mà tôi đã từng chiêm ngưỡng trong sách vở ở thời trung học và ao ước được một lần chìm đắm trong đó. Thành ra, mặc dù đến một nơi mình chưa từng đặt chân tới, tôi vẫn có cảm giác quen thuộc. Tôi sung sướng như thể được trở về chốn cũ.
Những cánh đồng cỏ và những đồi thông xanh ngát của núi rừng Tây tây lan cũng mang lại cho tôi cái cảm giác ấy. Tôi không chỉ nhớ lại cái quang cảnh này ở một số nước Âu Châu. Nó còn đưa tôi trở về một chốn cũ xa xăm hơn. Tôi muốn nói tới Đà Lạt thân yêu ngày xưa của tôi. Tôi có nghe nói tới núi rừng Sapa ngoài Bắc. Nhưng tôi chưa mường tượng được cảnh núi rừng ấy như thế nào. Còn về Đà lạt thì tôi thuộc như in từng góc phố, từng con đường và nhứt là những đồi thông. Cảnh trí của Tây tây lan đã làm sống lại trong tôi không biết bao nhiêu kỷ niệm về thành phố mộng mơ ấy.
Thời đó, ở tuổi đôi mươi và nhứt là sinh ra nơi chốn đồng chua nước mặn, với tôi được lên Đà Lạt chẳng khác nào sang Paris. Người ta bảo Đà Lạt là thành phố của Tây mà. Tôi vẫn nhớ mãi, lần đầu tiên khi chiếc xe đò “Minh Trung” từ Nha Trang, qua khỏi Sông Pha, ì ạch trườn lên đèo “Ngoạn mục” cho tới Đơn Dương và bắt đầu leo lên tới “Eo gió”, tôi thấy như mình  đang đi lạc vào một thế giới khác. Gió mát rượi thổi vào chiếc xe chật ních làm cho hành khách cảm thấy thoải mái và quên đi cái cảnh bó rọ mà mình phải trải qua đến cả 4,5 tiếng đồng hồ liền. Đến khi chiếc xe đò lên đến Trại Mát, Trại Hầm và chạy dọc theo con đường Gia Long thì khỏi nói: tôi cứ ngẩn ngơ như Từ Thức lạc vào động tiên. Ẩn khuất trong những rừng thông là những ngôi biệt thự mà tôi chỉ nghe tả trong sách vở và cả đời chẳng bao giờ dám mơ được đặt chân vào.
Tôi không biết còn có một ngày nào để trở về “chốn cũ” và được làm một Thanh Tuyền “đứng trên triền núi nhìn xuống đồi thông” không hay như Hàn Mặc Tử đứng nhìn “trăng mờ thật huyền mơ” và để “nghe dưới đáy nước hồ reo” hay không.
Một tuần lễ lang thang ở Tân tây lan đã cho tôi sống lại những kỷ niệm đẹp ở Đà Lạt và nhứt là “nhớ nhà”. Trong phong cảnh của núi rừng Tân tây lan, tôi không chỉ được hồi tưởng lại hình ảnh Đà lạt qua vườn cây đồi cỏ, những con suối chảy róc rách, những ngọn thác bên cạnh rừng thông, mà còn được chiêm ngưỡng những mái nhà bé nhỏ chênh vênh bên sườn đồi hay thảnh thơi giữa nông trại mênh mông với bầy trừu bò đông vô số kể. Thực vậy, cảnh đẹp thường được tăng thêm nhờ có sự hiện diện của con người. Chẳng phải bức tranh đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan trở nên nổi tiếng là bởi “lác đác bên sông chợ mấy nhà” sao?
Mà nhà ở thì thiên hình vạn trạng. Ban ngày, tôi thường ngắm căn nhà như ngắm một món đồ. Thế nhưng trong bóng đêm, căn nhà không còn thu hút tôi vì kích thước hay giá trị của nó, mà chính là chút ánh đèn lách qua khung cửa hay một vạt khói lửng lơ trên ống khói. Hình như cái ánh đèn, sự ấm cúng mời gọi của một cái bếp tỏa khói luôn làm cho người ta cố nhanh bước về nhà. Tôi cũng vậy, mỗi khi được về thăm nhà, chuyến xe đò đến bến bao giờ cũng chập tối, tôi chỉ muốn chạy như bay về nhà.
Ngôi nhà từ đường của tôi đúng là “cái nhà là nhà của ta, ông cố ông cha làm ra”. Tôi nghĩ cái tuổi của ngôi nhà ấy tính cho đến nay không dưới 200 năm. Nhà được lợp bằng thứ ngói mà cha tôi gọi là “ngói mốc”. Khi tôi có trí khôn thì toàn bộ mái nhà đã rệu rạo, tường nhà vốn được làm bằng gạch gắn liền với nhau bằng một loại vữa có trộn đường đen cũng đã bắt đầu xuống cấp; cột kèo rui mè, mặc dù được làm bằng gỗ quý cũng đã bị mối mọt gậm nhấm gần hết. Giữa thập niên 1960 khi tôi vừa xong bậc trung học, cha tôi đành phải mang tội “bất hiếu” với ông bà để cho phá sập ngôi nhà từ đường và xây nhà mới. Vì lý do kinh tế và tình cảm, cha tôi cũng giữ lại nhiều vật liệu từ ngôi nhà cũ và dùng lại. Nhà mới có phần khang trang rộng rãi hơn, nhưng với tôi dường như nó không còn giữ được cái hơi ấm của ngôi nhà từ đường, nơi anh chị em và ngay cả nhiều đứa cháu của tôi đã từng chen chúc nhau trong cùng một “buồng”, ngủ chung trên cùng một chiếc giường.
Quả thực, con người quyến luyến ngôi nhà của mình không hẳn vì nó đẹp đẽ, sang trọng hay tiện nghi, mà vì nó có cái “hồn” của nó. Căn nhà cũng thường tiết lộ cho người ta biết khá nhiều về đời sống, tính tình, ý thích…của những người đang cư ngụ. Có người chọn nhà gần chỗ làm để tiết kiệm thời gian. Người khác lại muốn căn nhà như một nơi chốn yên tĩnh sau một ngày làm việc dù phải đi xa khỏi thành phố. Cũng có khi ngôi nhà được chọn vì cái tên của con đường hay vì sự “môn đăng hộ đối” của những căn nhà bên cạnh. Mỗi người một chọn lựa theo cách riêng. Riêng tôi, hình ảnh ngôi nhà thường phải kèm theo một phong cảnh thích hợp và thơ mộng. Bởi vì khi về nhà, đối với tôi cũng giống như tạm ngưng tiếp xúc với thế giới bên ngoài để được hưởng cái cảnh “một gian nhà nhỏ đi về có nhau”. Chính vì vậy mà mái tranh nghèo của sư bà Giác Duyên trong Truyện Kiều luôn là giấc mộng cuối đời của tôi: “Đánh tranh lợp mái thảo đường, một gian nước biếc, mây vàng chia đôi”. Cảm tạ Ơn Trên, tuy không được như sư bà Giác Duyên, tôi cũng được hưởng cảnh núi rừng lúc hừng đông và chiều vàng trên sóng nước.
Gần nơi tôi ở có khá nhiều nhà thuộc diện “holiday house”. Chủ nhân của nó mua để một năm vài lần ghé qua mấy đêm. Mỗi lần đi ngang qua, tôi thấy thương hại cho chúng. Đó thường là những căn biệt thự mênh mông, tọa lạc ở những vị trí tuyệt đẹp gần bờ nước. Tôi không biết có bao giờ chủ nhân của chúng bỏ giờ đứng “rình” một đêm bên ngoài căn nhà to lớn tối om, lạnh lùng không một chút sinh khí nào không? Nếu chúng cũng có cảm giác như con người, chắc là chúng sẽ thấy đau khổ và ghen tức với những căn nhà lẹp xẹp nhưng ấm áp bên cạnh. Đó mới thật là “mái ấm”, mới thật là “home, sweet home”. Không cần làm thầy “phong thủy” tôi luôn tin rằng một căn nhà có quá nhiều phòng trống thì khó có thể gọi là mái ấm được.
Mặc dù thích đi chơi nhưng cứ sau vài ngày xa nhà là tôi bắt đầu thấy nhớ nhà. Mà hình như tôi “viện cớ” nhớ nhà để nhớ những thứ “lỉnh kỉnh” khác. Trước hết tôi nhớ cái giường quen thuộc, nhớ những bữa ăn đơn giản không theo kiểu sơn hào hải vị hay “cơm đường cháo chợ”. Tôi lại thấy nhớ những tiếng gà vịt quen thuộc đánh thức tôi dậy, tiếng chim hót chào một ngày mới. Tôi nhớ những sinh hoạt thường nhựt, những cặm cụi mà có lúc tôi nghĩ là “chịu hết nổi”. Tôi nhớ những buổi chiều đi dạo, những chào hỏi người này người kia dù chưa bao giờ bắt chuyện…Hết nhớ bắt đầu tôi lại thấy…lo! Nhìn mưa gió Tân tây lan mà lo không biết vịt con có bị lạnh, rau cải có bị dập hay không? Cửa nẻo đã khóa kỹ chưa hay còn để quên cái bếp? Tôi biết mình “lo bò trắng răng” nhưng vẫn vẩn vơ lo.
Cái bệnh “home sick” bất trị của tôi chắc chắn chỉ có một nguyên nhân: cái nhà, nơi “trú ẩn” tốt nhứt của tôi, cũng chính là một phần tinh thần rất quan trọng nuôi dưỡng tâm hồn tôi. Căn nhà cũng là “nhân chứng” sống động nhất nhìn thấy được đời sống nội tâm của tôi. Niềm quyến luyến ngôi nhà cũng chính là biểu hiện của sự yêu mến chính tâm hồn, đời sống và gia đình riêng của mình trong mỗi người vậy.
Quả là vui khi được đi chơi và lại vui hơn mỗi khi trở về.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét