Thứ Hai, 23 tháng 2, 2015

Bụi Tro Trở Về Tro Bụi



                                                                               Chu Thập
Mùa Chay 2011


Thể thao cũng giống như ẩm thực. Trong ăn uống, mình thích món này, nhưng lại không ưa món khác. Về thể thao, mình có thể say mê môn này nhưng lại chê môn khác. Sở thích cũng như văn hóa ảnh hưởng đến khẩu vị và chọn lựa của mỗi người. Người dân cựu thuộc địa của Pháp thích bóng đá và chuộng bánh mì Tây. Người dân trong khối Thịnh Vượng Chung của Anh thì dĩ nhiên chỉ  ưa cricket và quen với bánh sandwich.
Tôi có thể thích nghi với mọi món ăn. Nhưng trong thể thao, có những môn tôi không thể “nuốt” được. Tôi có một kinh nghiệm “bi đát” về môn Golf. Đó là năm cuối của bậc trung học khi tôi theo học tại Đà lạt, thành phố mộng mơ mà trước năm 75 ai cũng mong được một lần đến thăm viếng. Với khí hậu ôn đới và với núi rừng trùng điệp, chỗ nào của thành phố này cũng là “danh lam thắng cảnh” đối với đôi mắt  nai vàng  ngơ ngác của một cậu học sinh nhà quê như tôi. Nhưng nơi mà những ngày nghỉ tôi thường đến nhứt là “Đồi Cù” nằm bên cạnh bờ hồ Xuân Hương. Được gọi là “đồi cù” vì đây là sân Golf, môn thể thao mà tôi chỉ biết được khi lên Đà Lạt. Lần đầu tiên khi thấy cái cảnh những người nhà giàu cầm gậy đánh banh, bên cạnh họ có cả một đoàn người “hầu hạ” mang bị chuyên đi lượm banh, máu “cách mạng” liền sôi sục khiến tôi nổi giận thốt lên với các bạn: “Đã chơi thể thao mà còn có người hầu hạ thì còn gì là thể thao nữa.” Để gọi là “trả thù”, bọn thanh niên chúng tôi chẳng biết làm gì hơn là bắt chước các đôi tình nhân, ngồi nép dưới mấy gốc thông, chờ cho trái banh cù rơi xuống là lượm cho vào túi hoặc ném đi một nơi khác cho bõ ghét. Chỉ tội cho mấy người đi theo hầu những tay thể thao “trưởng giả”, tìm mãi mà chẳng thấy trái banh cù đâu cả!
Tôi không những không ưa mà còn “ghét” cái môn thể thao ấy. Tôi còn nhớ: khi nhà độc tài quân phiệt Than Shwe của Miến điện sang thăm Phi luật tân và được nước chủ nhà “đãi” cho một chầu chơi Golf,  một ký giả nào đó đã viết rằng “không có một nhà độc tài nào có  thể chơi Golf với một lương tâm yên ổn”. Điều này thì chắc chắn đúng cho giới lãnh đạo và các nhà tư bản đỏ hiện nay tại Việt nam. Cách đây không lâu, tôi lại nhìn thấy cái cảnh bất công ấy trong một chương trình du lịch ẩm thực của Luke Nguyễn được chiếu trên đài SBS: vẫn cái cảnh bao nhiêu đất đai canh tác của người dân nghèo biến thành sân Golf và những nhà thể thao “trưởng giả” ăn mặc bảnh bao được một đám người nghèo hầu hạ đi theo bên cạnh để nhặt banh cho.
Cũng may, ở các nước Tây phương, tôi không còn thấy cái cảnh chơi thể thao trưởng giả ấy nữa: ai chơi thì chịu khó mà đi lượm banh chứ chẳng có ai đi hầu hạ mình cả. Dù vậy, cho dẫu cả thế giới có ngưỡng mộ tài nghệ của Tiger Woods đến đâu đi nữa, thì  cái ác cảm ban đầu của tôi đối với môn thể thao này cũng vẫn còn đó.
Ý thức về công bình khiến tôi “ghét” cái môn “banh cù” đã đành, mà sự thiếu hiểu biết về thể thao cũng làm cho tôi có thành kiến về một số môn khác. Một cách đặc biệt tôi không thể nào “thích” được cái môn Cricket mà người Úc đang say mê như điếu đổ. Ngày nào, tôi cũng theo dõi tin tức về thể thao trên truyền hình. Nhưng hễ đến cái mục “Cricket” là tôi muốn đóng máy lại. Đúng là “vô tri bất mộ”. Để tỏ ra “thức thời” và sành điệu như mọi người Úc, tôi cũng đã bỏ ra không biết bao nhiêu giờ để xem các trận đấu. Tôi cũng đã nhờ bao nhiêu người giảng giải tường tận cho tôi về cách chơi và luật chơi của bộ môn này. Nhưng với cái đầu có sạn của tôi thì nhà chuyên môn nào của cricket cũng đành chịu thua. Cho tới giờ phút này, tôi cũng vẫn mãi mãi là một tên “ngoại đạo” đối với bộ môn này. Không những tôi thấy cái môn thể thao này “boring”, nó còn làm cho tôi “bực mình” là khác. Nhứt là cuối năm vừa qua khi diễn ra cái giải “Ashes” giữa Anh và Úc nghe chẳng giống ai cả. Ngày nào tôi cũng bị bắt buộc phải theo dõi và chẳng hiểu gì về các trận đấu. Lại thêm cái tiếng Anh khập khiễng của tôi nữa. Đúng hơn, cái tiếng Anh của người Úc cũng chẳng giống ai. Ngoài cái giọng “oi oi” lại còn có những tiếng chẳng có trong tự điển. Hồi mới đến trại tỵ nạn, tôi nghe người ta gọi một số phụ nữ Úc “cao lớn” làm việc trong các bệnh xá là “sister”. Tôi cứ nghĩ đây là một từ tương đương với hai tiếng “ma xơ” dễ thương của người Việt nam để chỉ các nữ tu công giáo. Thì ra, cách đây 30 năm về trước, người dân Úc vẫn còn gọi các nữ y tá là “sister”. Cũng về y tế, người Úc gọi phòng mổ là “theatre” khiến cho báo chí ở Việt nam bé cái lầm, cứ đụng tới chuyện giải phẫu ở Úc là  nói đến “hí viện trong nhà thương”. Còn có một từ khác mà lúc mới đến Úc, tôi chẳng hiểu ra làm sao cả: ngày 26 tháng 12 được gọi là ngày “Boxing Day”. Với cái đầu thường bị “điều kiện hóa” bởi thể thao, tôi liền liên tưởng đến cái môn quyền Anh mà tôi cũng chẳng ưa thích được vì nó dã man còn hơn cả môn đá gà của người Việt nam, người Phi luật tân hay người Châu mỹ Latinh. Cũng may, tôi chưa từng dịch từ “boxing day” cho ai nghe cả chứ báo chí ở trong nước thì đã nhanh nhẩu rồi. Thiệt là quê độ!
Bây giờ đến cái chữ “Ashes” trong các trận thi đấu Cricket kéo dài hàng tháng giữa Anh và Úc. Cũng may, thời buổi “a còng” này, chuyện gì cũng có thể hỏi ông “Google” được. Sợ người ta cười vì sự dốt nát của mình, cho nên tôi đã âm thầm gõ chữ “Ashes” vào Google.  
Ông thày Google giải thích cho tôi như thế này: “Ashes” là tên của một loạt trận thi đấu Cricket giữa Anh và Úc. Đây là trận thi đấu quốc tế Cricket  nổi tiếng nhứt có từ năm 1882. Hiện nay, các trận thi đấu này diễn ra hai năm một lần, hoặc tại Vương quốc Anh hoặc tại xứ Úc miệt dưới.
Sở dĩ các trận đấu được gọi là “Ashes” tức “tro bụi” là do một bản cáo phó đầy châm biếm được đăng trên báo “The Sporting Times” xuất bản tại Anh quốc năm 1882. Sau một trận đấu tại sân “The Oval” trong đó lần đầu tiên Úc đánh bại Anh ngay trên sân nhà của Anh, Báo “The Sporting Times”  cho đăng một bản cáo phó với nội dung như sau:  “môn Cricket của Anh đã chết và thi hài sẽ được hỏa táng và tro cốt sẽ được mang về Úc”. Sau đó, báo chí Anh gọi chuyến thi đấu của Anh tại Úc là chuyến đi giành lại tro cốt. Nhân dịp này, một nhóm phụ nữ tại Melbourne đã trao cho thủ quân Ivo Bligh của Anh một bình đất nung trong đó có chứa đựng “tro” của một mảnh gỗ Cricket bị đốt. Kể từ đó, các trận thi đấu giữa hai nước đều gọi là “Ashes”.
Thật ra, cái bình đựng tro này không phải là một chiếc “cup” mà chỉ tượng trưng cho sự chiến thắng. Đội nào thắng sẽ giữ cái bình tro này và đội kia cố gắng giành lại cái bình ấy. Nhưng dù có giải thích như thế nào đi nữa, “Ashes” (tro bụi) vẫn là cái thứ mà hai đội tuyển Criclet Anh và Úc cố tranh cho bằng được trong các trận thi đấu 2 năm một lần này. Tự nhiên, tôi lại nghĩ đến cách suy nghĩ rất dễ thương của mấy cụ bà nhà quê khi nhìn một trận đấu bóng đá: tại sao không phát cho mỗi người một trái banh để họ khỏi nhọc công tranh giành một trái như thế?
Nghe thì buồn cười, nhưng ngẫm nghĩ thấy cũng có cái lý thâm sâu của nó. Phải chăng trong cuộc đời ô trọc này, lắm khi người ta lại chẳng tranh nhau “từ chết đến bị thương” vì những thứ phù phiếm?
Ý nghĩ này thường đến với tôi mỗi khi tham dự một nghi lễ an táng trong đó vị linh mục hay mục sư của Kitô giáo thường đọc cái công thức quen thuộc “Ashes to ashes” (Bụi tro trở về tro bụi) khi cho hạ quan tài xuống lòng đất. Cứ nghe văng vẳng bên tai câu hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”.  Năm nay, vào ngày 9 tháng 3, ngày mà Giáo hội công giáo gọi là Thứ Tư Lễ Tro bắt đầu Mùa Chay kéo dài 5 tuần lễ, ý nghĩ ấy cũng trở về với tôi, khi tôi đón nhận một chút tro được rắc trên đầu. Câu hát quen thuộc “người ơi, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro” nghe não nuột, nhưng lại nhắc nhở tôi cái chân lý sâu xa về kiếp người.
Là một tín hữu Kitô, tôi được học biết rằng tro bụi, trong các tôn giáo cổ xưa như Do thái giáo chẳng hạn, tượng trưng cho tội lỗi và kiếp sống mong manh của con người. Theo truyền thống Do thái giáo, trái tim của người tội lỗi cũng giống như tro bụi. Kẻ gian ác sẽ bị người công chính chà đạp dưới chân như tro bụi. Do đó, thời xa xưa, khi ngồi trên tro bụi hay trét tro bụi vào người, người Do thái muốn công khai xưng thú rằng mình là một người tội lỗi. Theo truyền thống ấy, Kitô giáo cũng nhìn nhận tro bụi như biểu trưng của tội lỗi và tính cách mong manh của kiếp người.
Nhưng dù hiểu như thế nào đi nữa, tro bụi cũng đều gợi lên sự mong manh, chóng qua và mỏng dòn của cuộc sống con người. Mọi sự đều qua đi như tro bụi. Của cải, quyền lực, tiền bạc, danh vọng, thành đạt, thất bại…tất cả đều đến rồi đi. Mọi sự đều có một khởi đầu và một kết thúc. Mỗi một kinh nghiệm tôi có rồi cũng qua đi. Mỗi ý nghĩ tôi có đều khởi sự và cũng biến mất. Mỗi sự nghiệp tôi đổ mồ hôi, xót con mắt để có rồi cũng có ngày chấm dứt. Mỗi cảm xúc tôi trải nghiệm cũng đều như lớp sóng vỗ vào bờ. Vui tươi, phấn khởi, hạnh phúc, buồn khổ, ganh tỵ, thất vọng, trầm cảm, giận dữ, yêu thương, tủi hổ, hãnh diện…tất cả những cảm xúc ấy cũng đến, ở lại trong tôi một thời gian rồi cũng tan thành mây khói. Khi tôi trở thành tro bụi thì tất cả những gì thuộc về tôi cũng thành tro bụi. Tiền tỷ tôi có trong ngân hàng cũng chỉ là tro bụi, bởi lẽ một khi tôi trở thành tro bụi nó cũng chẳng còn bám được vào tôi  một mẩy may nào. Ngay cả những bất động sản tôi chiếm hữu được xét cho cùng cũng chỉ là tro bụi đối với một kẻ trắng tay nằm trơ trơ trong ba tấc đất.
Không cần phải đợi một trăm năm sau để tự hỏi như cụ Nguyễn Du: liệu có ai còn khóc mình không? Mỗi một tiếng gõ của đồng hồ phải chăng không là hồi chuông báo tử cho từng giây phút, từng cảm nghiệm, từng tình huống của cuộc sống chóng qua này?
Thật ra, ý tưởng này không đến nỗi làm cho tôi bi quan và phó mặc cho dòng đời đưa đẩy. Đến từ tro bụi rồi lại trở về với bụi tro. Nhưng cái khoảng cách thời gian giữa hai lằn mức đó lại là một cái gì đáng nói. Nó có thể thoáng qua như một cơn gió thoảng hay lưu lại dấu ấn muôn đời. Khoảng cách từ tro bụi đến bụi tro của một bậc thánh hiền khác xa với một người gian ác. Mahatma Gandhi cũng đã từng xem cuộc đời này là tro bụi: ông sống tiết dục, ăn uống đạm bạc và ngay cả chay tịnh, phục sức một cách đơn giản hết sức có thể. Ông cũng ngã gục và trở về cát bụi như mọi người. Nhưng tên tuổi của ông vẫn sống mãi trong lòng dân tộc Ấn độ và trong ký ức của nhân loại như một bậc thánh hiền. Bông hoa của tình thương, sự tha thứ vẫn mãi mãi trổ sinh trên cát bụi cuộc đời của ông. Từ “tro bụi trở về bụi tro” của Gandhi là một nước Ấn độ độc lập và ngày càng tiến bộ.
Những tay tổ Cộng sản như Lênin, Stalin, Mao trạch Đông, Hồ Chí Minh…cũng “từ tro bụi” mà đến, dù xác họ có được ướp và bảo quản một cách tốn kém hay được đặt vào lăng tẩm để kính viếng, thì cũng có khác gì “trở về bụi tro”. Nhưng giữa “Ashes to ashes” họ đã để lại những gì nếu không phải là tang tóc cho hàng trăm triệu con người và hơn hai tỷ người đau khổ gần suốt thế kỷ 20 và những cuộc chiến tranh tàn khốc liên lụy đến cả thế giới?
“Tro bụi trở về bụi tro”. Nhưng nếu được nhớ đến như là hình ảnh của tình thương, của an bình, của nhân ái…thì khi đó con người sinh ra không phải chỉ để chết nhưng để trở thành bất tử.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét