Thứ Bảy, 7 tháng 2, 2015

“Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”


Chu Thập
30.1.15

Lại một con tin nữa bị tổ chức “Quốc gia Hồi giáo” hành quyết. Nạn nhân lần này là một người Nhựt Bổn xem ra chẳng ăn nhập gì với thế giới Kitô giáo Tây Phương. Đàng sau mũi dao sắc bén, vô nhân đạo và dã man lúc nào cũng có là lá cờ đen của ISIS và dĩ nhiên khẩu hiệu bằng tiếng Á Rập “Allahu Akbar” (Thượng Đế Vĩ Đại). Thượng Đế Vĩ Đại lại được tung hô mỗi lần có một tên “ngoại đạo” bị sát hại!
Cứ mỗi lần có một con tin bị “Quốc gia Hồi giáo” hành quyết, cứ mỗi lần nghe tin về một cuộc khủng bố do những người Hồi giáo cực đoan và cuồng tín thực hiện nhân danh Thượng Đế Vĩ Đại, trong tôi lại dấy lên những câu hỏi nghìn đời của nhân loại: “Thượng Đế có cảm thấy được tôn vinh và vui thỏa khi con người nhân danh Ngài để sát hại người đồng loại không? Thượng Đế “có con mắt” có nhìn thấy những hành động dã man vô nhân đạo như thế không? Tại sao Thượng Đế cứ mãi giữ sự im lặng “đồng lõa” trước tội ác của con người? Ngài có phải là Đấng Toàn Năng và Trọn Hảo không? Ngài đang ở đâu? Ngài có thực sự hiện hữu không?”
Tôi nghĩ rằng bất luận chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, phái tính, tuổi tác hay địa vị xã hội, vào một lúc nào đó trong cuộc sống, dường như ai cũng đều có thể nêu lên những câu hỏi như thế khi đứng trước tội ác của con người cũng như khổ đau của bản thân hay của người đồng loại.
Với tôi, những câu hỏi này đã trở thành trọng tâm và cao điểm của chuyến viếng thăm vừa qua của Đức giáo hoàng Phanxicô tại quốc gia hải đảo Phi Luật Tân, đất nước có số tín hữu công giáo đông nhứt tại Á Châu.
Tôi vẫn luôn nhớ về đất nước và dân tộc này với rất nhiều thương mến và biết ơn. Người tỵ nạn nào đã từng đặt chân đến đất nước này chắc chắn cũng chỉ có thể có cùng một tâm tình như tôi mà thôi. Về đất nước và con người đã từng mở rộng vòng tay để đón tiếp và hết tình chăm sóc người Việt tỵ nạn trước và sau khi các trại tỵ nạn tại Đông Nam Á đóng cửa, tôi chỉ có thể nói rằng đây là một dân tộc rất “sùng đạo”. Có sùng đạo cho nên mới tỏ ra cảm thông và nhân ái để đối xử nhân đạo với người tỵ nạn. Có sùng đạo cho nên trong nhà ngoài ở, lên xe xuống cộ, trong nhà thờ, ở trường học, tại các công sở, nơi phố chợ...nơi nào cũng có những biểu hiện và biểu tượng của niềm tin tôn giáo. Bước lên một phương tiện di chuyển công cộng mà không làm dấu thánh giá không phải là người Phi. Và có lẽ chỉ có ở Phi Luật Tân, mỗi năm cứ đến ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, mới có cảnh nhiều người túa ra các ngã đường dùng chiếc roi thiếc tua tủa gai để quất vào chiếc lưng trần cho đến khi chảy máu đầm đìa hay tự nằm xuống cho người khác đóng đinh vào thập giá. Có lẽ cũng chỉ có ở Phi Luật Tân mới có hiện tượng 6 triệu người tập trung lại để đón tiếp một vị giáo hoàng như đã xảy ra trong chuyến viếng thăm vừa qua của Đức Phanxicô. Đây quả là một con số mà sách kỷ lục thế giới “Guinness Book” cần ghi lại khi nói đến lòng sùng đạo của một dân tộc.
Tôi ngưỡng lòng sùng đạo của dân tộc Phi Luật Tân, nhưng tôi cũng không thể không cảm thấy vừa thương hại vừa phẫn nộ khi nhìn vào tình trạng xã hội của đất nước này. Đây là một trong những chủ đề nổi bật của Đức Phanxicô trong các bài diễn văn đọc tại đây, nhứt là khi ngỏ lời với giới lãnh đạo chính trị của quốc gia. Tham nhũng tạo ra nghèo đói và bất công là một thứ văn hóa đã thấm nhiễm vào máu của các chính trị gia của một đất nước mà hơn một phần tư dân số 100 triệu người phải sống trong nghèo đói.
Tôi luôn tin rằng niềm tin tôn giáo ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Ở Thái Lan chẳng hạn, như tôi đã nhìn thấy tận mắt, giáo lý Phật Giáo đã thực sự chi phối cuộc sống con người. Lòng sùng đạo của người dân Thái cũng được biểu lộ ra bên ngoài chẳng khác gì người Phi Luật Tân. Có khác chăng là ở Thái Lan niềm tin tôn giáo có lẽ đã ăn sâu vào mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Tôi không sợ quá thiên vị để bảo rằng so sánh với Phi Luật Tân, Thái Lan ít có tham nhũng hơn, ít có bất công hơn, ít có khu ổ chuột hơn, ít có người ăn xin hơn và tuyệt nhiên, vì là một xứ Phật Giáo, không hề có một Casino nào!
Trong nhiều năm sống ở Phi Luật Tân, tôi đã không ngừng thắc mắc: tại sao một đất nước với một lòng sùng đạo thật cao, nếu chỉ đo lường sự sùng đạo bằng những biểu dương và nghi lễ, tham nhũng lại được xem như một thứ văn hóa, bất công xã hội trở thành một căn bệnh bất trị, tệ nạn xã hội được nhìn thấy nhan nhản trước mắt và hàng ngày? Hiện đang có 1.2 triệu trẻ em Phi sống trên đường phố. Theo thống kê năm 2009, có đến 35.1 phần trăm trẻ em sống trong nghèo đói và theo Sáng Hội Bảo Vệ Trẻ Em (Child Protection Network Foundation) hồi năm ngoái, tỷ lệ này đã gia tăng một cách đáng kể.
Glyzelle Palomar, tên của một bé gái được truyền thông thế giới nhắc đến rất nhiều nhân chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô, là một trong số những trẻ em đường phố tại Phi Luật Tân. Bé gái 12 tuổi này hiện đang được tổ chức từ thiện của các nữ tu chăm sóc. Trong một buổi nói chuyện của Đức Phanxicô với các giáo sư và sinh viên tại một đại học ở thủ đô Manila, em đã được sắp xếp để gặp gỡ với ngài. Được ngài giang rộng vòng tay để ôm ấp, cô bé đã từng trải qua cuộc sống khốn khổ, đã òa khóc và đặt ra câu hỏi: “Nhiều trẻ em vướng vào ma túy và mãi dâm. Tại sao Thượng Đế cho phép những điều đó xảy ra cho chúng ta? Trẻ con có tội tình gì đâu!”
Đây là câu hỏi mà có lẽ rất nhiều người Phi cũng đã từng đặt ra, nhứt là khi đứng trước nỗi khổ đau của người đồng loại hay phải đối đầu với những khó khăn chồng chất của cuộc sống. Người Phi thường đi tìm đến nhà thờ để tìm giải đáp cho những vấn đề của cuộc sống. Mỗi năm, vào ngày lễ tôn vinh bức tượng thánh giá gỗ nổi tiếng tại Manila, không dưới 2 triệu người dẫm đạp lên nhau để được sờ vào bức tượng và cầu mong phúc lành cho mình. Vào những mùa thi cử của học sinh và sinh viên, bức tượng lại càng bóng nhẵn hơn vì được sờ và hôn liên tục. Tại một nhà thờ có tên là Đức Bà “Bon Voyage” (Our Lady of Bon Voyage) ở ngoại ô Manila, người dân Phi từ khắp nơi túa đến để không chỉ xin đi đường được thượng lộ bình an, mà là để được gia nhập vào lực lượng “lao động xuất khẩu” ở nước ngoài. Đây là một trong những nguồn thu nhập chính của Phi Luật Tân.
Tựu trung, người dân Phi vẫn xem niềm tin tôn giáo như chỗ dựa để giải quyết các khó khăn trong cuộc sống. Câu hỏi mà bé Glyzelle đặt ra cho Đức Phanxicô một phần nào diễn tả đúng tâm trạng của rất nhiều người dân Phi: Tại sao Thượng Đế để cho con người phải đau khổ?
Đứng trước câu hỏi này, nhà lãnh đạo tinh thần của hơn một tỷ người trên khắp thế giới, người mà có lẽ người công giáo và cách riêng người dân Phi tin tưởng có sẵn giải đáp cho mọi vấn đề, khẳng định rằng đây là một vấn nạn không có câu trả lời. Theo nhà lãnh đạo tinh thần này, đứng trước khổ đau trong cuộc sống,  thay vì chạy đến với Thượng Đế để tra hỏi và nêu lên trách nhiệm của Ngài, hãy tự mình tìm ra giải đáp cho vấn đề. Chính vì vậy mà ngài nói: “Tôi mời gọi mỗi người trong anh chị em hãy tự hỏi lòng mình: “Tôi có bao giờ học khóc mỗi khi tôi thấy một đứa trẻ đói ăn, một đứa trẻ trên đường phố đang sử dụng ma túy, một đứa trẻ vô gia cư, một đứa trẻ bị bỏ rơi, một đứa trẻ bị lạm dụng, một đứa trẻ bị xã hội sử dụng như một nô lệ không?” Tôi hiểu được ý của vị giáo hoàng này: vấn đề không phải là mất giờ để tìm hiểu hay tranh cãi về nguồn gốc của đau khổ, mà chính là biết cảm thông trước nỗi khổ đau và tìm cách xoa dịu nỗi khổ đau ấy. Đã lạc giữa biển khơi, vấn đề không phải là ngồi đó mà thắc mắc tại sao mình có mặt giữa biển khơi để mà than thân trách phận hay chờ đợi phép lạ, mà là tìm cách chèo chống để vào bờ.
Câu trả lời trên đây của nhà lãnh đạo công giáo khiến tôi nhớ lại câu châm ngôn: “Hãy tự giúp mình, trời sẽ giúp bạn” (Aide-toi, le Ciel t’aidera). Tôi nghĩ có lẽ sau khi đã lòng vòng ở thuyết định mệnh để giải thích về cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều, cụ Nguyễn Du đã đành phải đi đến kết luận: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”. Chẳng có ông trời nào bắt con người phải khổ. Chẳng có số phận nào là bất biến. “Vượt qua số phận” là thành ngữ quen thuộc mà con người thời đại thường sử dụng để nói đến sự thành công của những con người sinh ra không có nhiều may mắn như người khác hoặc phải trả qua nhiều bất hạnh trong cuộc sống mà vẫn có thể vươn lên. Những con người như thế, dù chỉ được trời cho một trái chanh, đã biết vắt lấy để có được một ly nước thơm ngon!
Tôi nghĩ đến bà Rosie Batty, người vừa được vinh danh như người Úc của năm 2015 (Australian of the Year). Một buổi chiều nóng bức dạo tháng 2 năm 2014, tại một khu ngoại ô đông nam Melbourne, Luke Batty, cậu con trai 11 tuổi của bà đang chơi Cricket với cha cậu, ông Greg Anderson. Không một lời cảnh cáo, người cha đã vung gậy đập vào đầu con, rồi dùng dao tấn công đứa con đến chết. Ông cũng ngăn cản nhân viên cứu thương đến làm phận sự. Cảnh sát đã phải can thiệp và cuối cùng phải bắn gục người cha. Ông qua đời vào sáng hôm sau. Đứng trước cửa nhà, bà Rosie Batty, năm nay 52 tuổi, đã nói với giới truyền thông: “Tôi muốn nói với mọi người rằng bạo hành gia đình là chuyện xảy ra cho mọi người, bất luận nhà của bạn có đẹp đến đâu, bạn có thông minh cỡ nào. Nó có thể xảy ra cho mọi người và mỗi người. Đây là một cuộc chiến đấu đã kéo dài trong 11 năm qua (đối với bà). Dù bạn có cố gắng đến đâu, bạn vẫn là một nạn nhân và bạn không thể làm gì được.” Kể từ sau biến cố đau thương này, bà Batty không chịu ngồi đó để than thân trách phận, mà không ngừng lên tiếng cảnh cáo về tệ nạn bạo hành gia đình và vận động để chính phủ phải tỏ ra tích cực trong việc bài trừ bạo hành gia đình bằng cách đưa ra các biện pháp cứng rắn cũng như cung cấp các dịch vụ cho những người phụ nữ đang tìm cách thoát khỏi bạo hành gia đình.
Người phụ nữ thứ hai được bầu chọn làm người trẻ Úc của năm (Young Australian of the Year) là cô Drisana Levitzke-Gray. Cô gái 21 tuổi này là một người bẩm sinh bị câm điếc. Thay vì ngồi đó than thân trách phận hay đổ lỗi cho ông trời hoặc người khác, cô đã “vượt qua số phận” bằng cách đứng ra tranh đấu cho quyền của trẻ em câm điếc trên thế giới được học tiếng “Auslan”, tức ngôn ngữ bằng cử chỉ hiện đang được cộng đồng người câm điếc tại Úc sử dụng. Năm ngoái, cô đã trở thành người câm điếc đầu tiên tại Úc Đại Lợi được mời làm bồi thẩm viên trong tòa án.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể tự vượt qua số phận dễ dàng. Trong khốn cùng, ai cũng cần một bàn tay, một cơ hội từ sự giúp đỡ của người khác. Đó cũng chính là cốt lõi mà tôi tìm thấy trong lời nhắn nhủ của Đức Phanxicô. Bà Rosie Batty và cô Drisana Levitzke-Gray nhắc nhở chúng ta rằng không những mỗi người phải tự “vượt qua số phận” mà còn phải giúp những người khác nữa.
Nếu có một phép lạ mà Thượng Đế vẫn còn làm và tiếp tục can dự vào cuộc sống con người thì phép lạ đó chính là luôn khơi dậy niềm hy vọng, khả năng bắt đầu làm lại không ngừng và nhứt là lòng cảm thông với người khác trong mỗi con người.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét