Chu Thập
30.1.15
Lại một con tin nữa bị tổ chức “Quốc gia Hồi giáo” hành quyết. Nạn nhân lần
này là một người Nhựt Bổn xem ra chẳng ăn nhập gì với thế giới Kitô giáo Tây
Phương. Đàng sau mũi dao sắc bén, vô nhân đạo và dã man lúc nào cũng có là lá cờ
đen của ISIS và dĩ nhiên khẩu hiệu bằng tiếng Á Rập “Allahu Akbar” (Thượng Đế
Vĩ Đại). Thượng Đế Vĩ Đại lại được tung hô mỗi lần có một tên “ngoại đạo” bị
sát hại!
Cứ mỗi lần có một con tin bị “Quốc gia Hồi giáo” hành quyết, cứ mỗi lần
nghe tin về một cuộc khủng bố do những người Hồi giáo cực đoan và cuồng tín thực
hiện nhân danh Thượng Đế Vĩ Đại, trong tôi lại dấy lên những câu hỏi nghìn đời
của nhân loại: “Thượng Đế có cảm thấy được tôn vinh và vui thỏa khi con người
nhân danh Ngài để sát hại người đồng loại không? Thượng Đế “có con mắt” có nhìn
thấy những hành động dã man vô nhân đạo như thế không? Tại sao Thượng Đế cứ mãi
giữ sự im lặng “đồng lõa” trước tội ác của con người? Ngài có phải là Đấng Toàn
Năng và Trọn Hảo không? Ngài đang ở đâu? Ngài có thực sự hiện hữu không?”
Tôi nghĩ rằng bất luận chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, phái tính, tuổi tác
hay địa vị xã hội, vào một lúc nào đó trong cuộc sống, dường như ai cũng đều có
thể nêu lên những câu hỏi như thế khi đứng trước tội ác của con người cũng như
khổ đau của bản thân hay của người đồng loại.
Với tôi, những câu hỏi này đã trở thành trọng tâm và cao điểm của chuyến viếng
thăm vừa qua của Đức giáo hoàng Phanxicô tại quốc gia hải đảo Phi Luật Tân, đất
nước có số tín hữu công giáo đông nhứt tại Á Châu.
Tôi vẫn luôn nhớ về đất nước và dân tộc này với rất nhiều thương mến và biết
ơn. Người tỵ nạn nào đã từng đặt chân đến đất nước này chắc chắn cũng chỉ có thể
có cùng một tâm tình như tôi mà thôi. Về đất nước và con người đã từng mở rộng
vòng tay để đón tiếp và hết tình chăm sóc người Việt tỵ nạn trước và sau khi
các trại tỵ nạn tại Đông Nam Á đóng cửa, tôi chỉ có thể nói rằng đây là một dân
tộc rất “sùng đạo”. Có sùng đạo cho nên mới tỏ ra cảm thông và nhân ái để đối xử
nhân đạo với người tỵ nạn. Có sùng đạo cho nên trong nhà ngoài ở, lên xe xuống
cộ, trong nhà thờ, ở trường học, tại các công sở, nơi phố chợ...nơi nào cũng có
những biểu hiện và biểu tượng của niềm tin tôn giáo. Bước lên một phương tiện
di chuyển công cộng mà không làm dấu thánh giá không phải là người Phi. Và có lẽ
chỉ có ở Phi Luật Tân, mỗi năm cứ đến ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tưởng niệm cái chết
của Chúa Giêsu, mới có cảnh nhiều người túa ra các ngã đường dùng chiếc roi thiếc
tua tủa gai để quất vào chiếc lưng trần cho đến khi chảy máu đầm đìa hay tự nằm
xuống cho người khác đóng đinh vào thập giá. Có lẽ cũng chỉ có ở Phi Luật Tân mới
có hiện tượng 6 triệu người tập trung lại để đón tiếp một vị giáo hoàng như đã
xảy ra trong chuyến viếng thăm vừa qua của Đức Phanxicô. Đây quả là một con số
mà sách kỷ lục thế giới “Guinness Book” cần ghi lại khi nói đến lòng sùng đạo của
một dân tộc.
Tôi ngưỡng lòng sùng đạo của dân tộc Phi Luật Tân, nhưng tôi cũng không thể
không cảm thấy vừa thương hại vừa phẫn nộ khi nhìn vào tình trạng xã hội của đất
nước này. Đây là một trong những chủ đề nổi bật của Đức Phanxicô trong các bài
diễn văn đọc tại đây, nhứt là khi ngỏ lời với giới lãnh đạo chính trị của quốc
gia. Tham nhũng tạo ra nghèo đói và bất công là một thứ văn hóa đã thấm nhiễm
vào máu của các chính trị gia của một đất nước mà hơn một phần tư dân số 100
triệu người phải sống trong nghèo đói.
Tôi luôn tin rằng niềm tin tôn giáo ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Ở
Thái Lan chẳng hạn, như tôi đã nhìn thấy tận mắt, giáo lý Phật Giáo đã thực sự
chi phối cuộc sống con người. Lòng sùng đạo của người dân Thái cũng được biểu lộ
ra bên ngoài chẳng khác gì người Phi Luật Tân. Có khác chăng là ở Thái Lan niềm
tin tôn giáo có lẽ đã ăn sâu vào mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Tôi
không sợ quá thiên vị để bảo rằng so sánh với Phi Luật Tân, Thái Lan ít có tham
nhũng hơn, ít có bất công hơn, ít có khu ổ chuột hơn, ít có người ăn xin hơn và
tuyệt nhiên, vì là một xứ Phật Giáo, không hề có một Casino nào!
Trong nhiều năm sống ở Phi Luật Tân, tôi đã không ngừng thắc mắc: tại sao một
đất nước với một lòng sùng đạo thật cao, nếu chỉ đo lường sự sùng đạo bằng những
biểu dương và nghi lễ, tham nhũng lại được xem như một thứ văn hóa, bất công xã
hội trở thành một căn bệnh bất trị, tệ nạn xã hội được nhìn thấy nhan nhản trước
mắt và hàng ngày? Hiện đang có 1.2 triệu trẻ em Phi sống trên đường phố. Theo
thống kê năm 2009, có đến 35.1 phần trăm trẻ em sống trong nghèo đói và theo
Sáng Hội Bảo Vệ Trẻ Em (Child Protection Network Foundation) hồi năm ngoái, tỷ
lệ này đã gia tăng một cách đáng kể.
Glyzelle Palomar, tên của một bé gái được truyền thông thế giới nhắc đến rất
nhiều nhân chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô, là một trong số những trẻ em đường
phố tại Phi Luật Tân. Bé gái 12 tuổi này hiện đang được tổ chức từ thiện của
các nữ tu chăm sóc. Trong một buổi nói chuyện của Đức Phanxicô với các giáo sư
và sinh viên tại một đại học ở thủ đô Manila, em đã được sắp xếp để gặp gỡ với
ngài. Được ngài giang rộng vòng tay để ôm ấp, cô bé đã từng trải qua cuộc sống
khốn khổ, đã òa khóc và đặt ra câu hỏi: “Nhiều trẻ em vướng vào ma túy và mãi
dâm. Tại sao Thượng Đế cho phép những điều đó xảy ra cho chúng ta? Trẻ con có tội
tình gì đâu!”
Đây là câu hỏi mà có lẽ rất nhiều người Phi cũng đã từng đặt ra, nhứt là
khi đứng trước nỗi khổ đau của người đồng loại hay phải đối đầu với những khó
khăn chồng chất của cuộc sống. Người Phi thường đi tìm đến nhà thờ để tìm giải
đáp cho những vấn đề của cuộc sống. Mỗi năm, vào ngày lễ tôn vinh bức tượng
thánh giá gỗ nổi tiếng tại Manila, không dưới 2 triệu người dẫm đạp lên nhau để
được sờ vào bức tượng và cầu mong phúc lành cho mình. Vào những mùa thi cử của
học sinh và sinh viên, bức tượng lại càng bóng nhẵn hơn vì được sờ và hôn liên
tục. Tại một nhà thờ có tên là Đức Bà “Bon Voyage” (Our Lady of Bon Voyage) ở
ngoại ô Manila, người dân Phi từ khắp nơi túa đến để không chỉ xin đi đường được
thượng lộ bình an, mà là để được gia nhập vào lực lượng “lao động xuất khẩu” ở
nước ngoài. Đây là một trong những nguồn thu nhập chính của Phi Luật Tân.
Tựu trung, người dân Phi vẫn xem niềm tin tôn giáo như chỗ dựa để giải quyết
các khó khăn trong cuộc sống. Câu hỏi mà bé Glyzelle đặt ra cho Đức Phanxicô một
phần nào diễn tả đúng tâm trạng của rất nhiều người dân Phi: Tại sao Thượng Đế
để cho con người phải đau khổ?
Đứng trước câu hỏi này, nhà lãnh đạo tinh thần của hơn một tỷ người trên khắp
thế giới, người mà có lẽ người công giáo và cách riêng người dân Phi tin tưởng
có sẵn giải đáp cho mọi vấn đề, khẳng định rằng đây là một vấn nạn không có câu
trả lời. Theo nhà lãnh đạo tinh thần này, đứng trước khổ đau trong cuộc sống, thay vì chạy đến với Thượng Đế để tra hỏi và
nêu lên trách nhiệm của Ngài, hãy tự mình tìm ra giải đáp cho vấn đề. Chính vì
vậy mà ngài nói: “Tôi mời gọi mỗi người trong anh chị em hãy tự hỏi lòng mình: “Tôi
có bao giờ học khóc mỗi khi tôi thấy một đứa trẻ đói ăn, một đứa trẻ trên đường
phố đang sử dụng ma túy, một đứa trẻ vô gia cư, một đứa trẻ bị bỏ rơi, một đứa
trẻ bị lạm dụng, một đứa trẻ bị xã hội sử dụng như một nô lệ không?” Tôi hiểu
được ý của vị giáo hoàng này: vấn đề không phải là mất giờ để tìm hiểu hay tranh
cãi về nguồn gốc của đau khổ, mà chính là biết cảm thông trước nỗi khổ đau và
tìm cách xoa dịu nỗi khổ đau ấy. Đã lạc giữa biển khơi, vấn đề không phải là ngồi
đó mà thắc mắc tại sao mình có mặt giữa biển khơi để mà than thân trách phận
hay chờ đợi phép lạ, mà là tìm cách chèo chống để vào bờ.
Câu trả lời trên đây của nhà lãnh đạo công giáo khiến tôi nhớ lại câu châm
ngôn: “Hãy tự giúp mình, trời sẽ giúp bạn” (Aide-toi, le Ciel t’aidera). Tôi
nghĩ có lẽ sau khi đã lòng vòng ở thuyết định mệnh để giải thích về cuộc đời
truân chuyên của nàng Kiều, cụ Nguyễn Du đã đành phải đi đến kết luận: “Đã mang
lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”. Chẳng có ông trời
nào bắt con người phải khổ. Chẳng có số phận nào là bất biến. “Vượt qua số phận”
là thành ngữ quen thuộc mà con người thời đại thường sử dụng để nói đến sự
thành công của những con người sinh ra không có nhiều may mắn như người khác hoặc
phải trả qua nhiều bất hạnh trong cuộc sống mà vẫn có thể vươn lên. Những con
người như thế, dù chỉ được trời cho một trái chanh, đã biết vắt lấy để có được
một ly nước thơm ngon!
Tôi nghĩ đến bà Rosie Batty, người vừa được vinh danh như người Úc của năm
2015 (Australian of the Year). Một buổi chiều nóng bức dạo tháng 2 năm 2014, tại
một khu ngoại ô đông nam Melbourne, Luke Batty, cậu con trai 11 tuổi của bà
đang chơi Cricket với cha cậu, ông Greg Anderson. Không một lời cảnh cáo, người
cha đã vung gậy đập vào đầu con, rồi dùng dao tấn công đứa con đến chết. Ông
cũng ngăn cản nhân viên cứu thương đến làm phận sự. Cảnh sát đã phải can thiệp
và cuối cùng phải bắn gục người cha. Ông qua đời vào sáng hôm sau. Đứng trước cửa
nhà, bà Rosie Batty, năm nay 52 tuổi, đã nói với giới truyền thông: “Tôi muốn
nói với mọi người rằng bạo hành gia đình là chuyện xảy ra cho mọi người, bất luận
nhà của bạn có đẹp đến đâu, bạn có thông minh cỡ nào. Nó có thể xảy ra cho mọi
người và mỗi người. Đây là một cuộc chiến đấu đã kéo dài trong 11 năm qua (đối
với bà). Dù bạn có cố gắng đến đâu, bạn vẫn là một nạn nhân và bạn không thể
làm gì được.” Kể từ sau biến cố đau thương này, bà Batty không chịu ngồi đó để
than thân trách phận, mà không ngừng lên tiếng cảnh cáo về tệ nạn bạo hành gia
đình và vận động để chính phủ phải tỏ ra tích cực trong việc bài trừ bạo hành
gia đình bằng cách đưa ra các biện pháp cứng rắn cũng như cung cấp các dịch vụ
cho những người phụ nữ đang tìm cách thoát khỏi bạo hành gia đình.
Người phụ nữ thứ hai được bầu chọn làm người trẻ Úc của năm (Young
Australian of the Year) là cô Drisana Levitzke-Gray. Cô gái 21 tuổi này là một
người bẩm sinh bị câm điếc. Thay vì ngồi đó than thân trách phận hay đổ lỗi cho
ông trời hoặc người khác, cô đã “vượt qua số phận” bằng cách đứng ra tranh đấu
cho quyền của trẻ em câm điếc trên thế giới được học tiếng “Auslan”, tức ngôn
ngữ bằng cử chỉ hiện đang được cộng đồng người câm điếc tại Úc sử dụng. Năm
ngoái, cô đã trở thành người câm điếc đầu tiên tại Úc Đại Lợi được mời làm bồi
thẩm viên trong tòa án.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể tự vượt qua số phận dễ dàng. Trong khốn
cùng, ai cũng cần một bàn tay, một cơ hội từ sự giúp đỡ của người khác. Đó cũng
chính là cốt lõi mà tôi tìm thấy trong lời nhắn nhủ của Đức Phanxicô. Bà Rosie
Batty và cô Drisana Levitzke-Gray nhắc nhở chúng ta rằng không những mỗi người
phải tự “vượt qua số phận” mà còn phải giúp những người khác nữa.
Nếu có một phép lạ mà Thượng Đế vẫn còn làm và tiếp tục can dự vào cuộc sống
con người thì phép lạ đó chính là luôn khơi dậy niềm hy vọng, khả năng bắt đầu
làm lại không ngừng và nhứt là lòng cảm thông với người khác trong mỗi con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét