Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Những giấc Nam Kha


Chu Thập
30.06.11


Như mọi người, tôi thường nằm chiêm bao. Và cũng như mọi người, tôi thường quên béng sau khi thức dậy. Theo các nhà khoa học, người ta thường nằm mơ từ 4 đến 7 tiếng đồng hồ mỗi đêm. Như vậy, “sinh hoạt” trong những giấc chiêm bao cũng chiếm không dưới một phần sáu cuộc đời của tôi. Thế nhưng, điều ấy cũng chẳng làm cho tôi quan tâm đến chuyện “mơ mộng”. Đơn giản bởi vì tôi nghĩ rằng điều gì nằm ngoài sự điều khiển của ý thức thì quan tâm đến để làm gì, chỉ tổ ôm thêm một đống âu lo không đi tới đâu mà thôi. Tôi sợ nhứt là cứ phải đêm đến mơ thấy có kẻ thù định giết mình, sáng ra cứ ngồi trước ngõ mà chờ hắn, nhưng chờ hoài không thấy kẻ thù mà chính mình cứ phải chết dần chết mòn trong thù hận.
Khi còn là một nhóc con, tôi nổi tiếng trong nhà vì vừa chiêm bao lia chia vừa chạy chơi lung tung khắp chốn. Tôi nghĩ giấc mơ tuổi thơ của tôi thời thập niên 1950 chắc cũng không khác gì giấc mơ của hầu hết trẻ em Việt Nam hôm nay: mơ thấy đói lả, thấy được ăn những món ăn ngon, được mặc quần áo đẹp, và nhứt là thấy mình được chơi đùa thỏa thích mà không phải đi học. Đến thời thanh niên trai trẻ, đặt lưng xuống là đi ngay, tôi chẳng nhớ gì cả, ngoại trừ những cơn ác mộng thấy bị...công an xét giấy, đi vượt biên bị “bể” phải chạy thục mạng hay khi đã định cư tại Đệ Tam quốc gia mà vẫn mơ thấy mình còn đang kẹt tại quê nhà. Những lúc đó tỉnh dậy, toát mồ hôi trán, mừng hết lớn! Còn bây giờ, ở tuổi “ngang tầm thời đại” với các bác cao niên, tôi có thể nhớ những giấc chiêm bao một cách rõ ràng hơn. Đôi khi cũng có tình tiết “đàng hoàng” để tôi có thể làm cho nhà tôi cười mệt nghỉ trong buổi ăn sáng. Mà thực vậy, trong giấc mơ, câu chuyện hợp lý, nhiều tình tiết và hấp dẫn bao nhiêu thì khi kể lại, chúng buồn cười, vô lý và chẳng ra đầu đuôi tai nheo gì cả. Nhưng dù sao, tôi thấy mình cũng vẫn may mắn hơn các em bé ở Việt nam ngày nay. Tôi tin chắc như đinh đóng cột rằng mình chưa bao giờ bị “hôm qua em mơ gặp Bác Hồ”. Nếu một đêm nào mà tôi rủi mơ trúng chuyện này thì chắc tôi sẽ...trốn chui trốn nhủi ngay trong giấc chiêm bao của mình chứ dứt khoát không còn mặt mũi nào để thức dậy nhìn đời được nữa.
Có lúc tôi tự hỏi mình có mắc chứng dementia (lú lẫn) không. Bởi vì có những chuyện từ cái thuở hồi nẳm, có những người tôi còn không nhớ nổi tên tuổi, có những khung cảnh, nơi chốn, những sinh hoạt thời mới có trí khôn...bỗng dưng thỉnh thoảng “trồi” lên một cách sống động trong những giấc chiêm bao của tôi. Không lẽ bộ não của tôi đã mòn hết bên ngoài để lộ ra tới lớp trong cùng rồi hay sao? Nhưng thôi, cũng không hề chi. Bởi vì chuyện chiêm bao không hề làm cho cuộc sống của tôi sứt mẻ đi chút nào mà trái lại, tôi thấy mình hằng đêm được đi chu du khắp chốn, thăm người này một chút, ghé chỗ kia một chút. Sướng nhứt là vừa không tốn tiền, tốn thì giờ, cũng không phải ngồi máy bay ê lưng vừa có những cuộc hội ngộ hết sức bất ngờ, cảm động ở khắp mọi nơi trên thế giới. Buồn cười nhứt là có bữa tôi chiêm bao thấy mình đang tham dự như là một thành viên của Quốc hội Hoa kỳ!! Cũng may, trong giấc mơ, dù thấy mình tự dưng “cũng ngang hàng như người ta” tôi khoái chí lắm nhưng chỉ dám ngồi yên chứ không đủ can đảm để tính tới chuyện “phân hóa nội bộ” nước Mỹ như chủ tịch Nguyễn Minh Triết. Kể cũng thật lý thú.
Giấc chiêm bao tự nó không mang đến một hệ quả nào cả nếu như không có một lời giải thích mà dựa theo đó người ta tạo thành hiện thực. Một trong những câu chuyện chiêm bao nổi tiếng được ghi vào lịch sử xa xưa nhứt của nhân loại có lẽ là chuyện ông Giuse giải thích những giấc chiêm bao của  vua Pharaon bên Ai Cập. Kinh Thánh Do Thái Giáo ghi lại rằng, ông Giuse là một người có tài giải nghĩa chiêm bao. Cũng vì chuyện này mà ông bị các anh em ghét bỏ đến độ định giết bằng cách quăng vào một cái giếng sâu. Cuối cũng họ quyết định bán ông cho lái buôn cho khuất mắt. Lưu lạc đến Ai cập, ông phải phục vụ trong nhà một quan thái giám của vua Pharaon. Ông được tin cẩn và khen thưởng vì sự khôn ngoan và siêng năng. Ông cũng được biết đến vì những lời giải mộng. Một lần trong tù, ông được yêu cầu giải thích về giấc mơ của hai người bạn tù là hai ông quan trong triều đình của Pharaon. Lời giải thích của ông hoàn toàn chính xác để sau đó một ông được phục chức trong khi ông kia lại bị bay đầu.
Thế nhưng phải đợi đến khi cả nước Ai cập bị “bí” trước những giấc mơ của Pharaon, ông Giuse mới thực sự trở nên nổi tiếng và trở thành ân nhân cho không những toàn cõi Ai cập mà còn cho cả gia đình của ông bao gồm cả mấy ông anh “trời đánh” đã nhẫn tâm tìm cách làm hại ông. Pharaon nằm chiêm bao thấy bảy bông lúa lép và xấu nuốt chửng bảy bông lúa mẩy và chắc. Một giấc chiêm bao khác thì bảy con bò gầy guộc xấu xí nuốt chửng bảy con bò đẹp đẽ béo tốt. Không ai giải thích được kể cả các thày phù thủy Ai cập. Cuối cùng, anh chàng Hipri nô lệ Giuse được gọi đến. Lần này lời giải thích của ông không gây đổ máu, cũng không liên quan gì đến một nhóm “thất nhân bang” nào trong triều đình. Ông đã giải thích giấc chiêm bao của Pharaon như ngày nay khoa học giải thích về hiện tượng La Nina và El Nino: Ai cập sẽ có bảy năm mưa thuận gió hòa và nối tiếp bằng bảy năm khô hạn mất mùa. Ông cũng đưa ra những lời khuyên thiết thực để có thể đối phó với hoàn cảnh.
Nhờ lời giải mộng này, Giuse trở thành tể tướng Ai cập. Ông cũng giúp đỡ và đưa gia đình cha mẹ anh em sang Ai cập tránh nạn đói và định cư, sinh sôi nảy nở thành một cộng đồng Do thái lớn mạnh sau này.
Thời nay, tìm được một ông Giuse trong Kinh Thánh không phải là dễ, nhưng những ông tiên tri “nói thánh nói tướng” thì ở đâu và thời nào cũng vô số kể. Tôi không tin ở lời giải mộng của các tiên tri ấy. Cùng lắm tôi chỉ tìm đến các đệ tử của Sigmund Freud để nhờ giúp “đào sâu” trong tiềm thức của tôi để xem tại sao tôi thường mơ về chuyện này mà không về chuyện khác. Với tôi, những giấc chiêm bao cũng chỉ là những sinh hoạt thường ngày trong đời sống chứ không như một điều cần phải “giải mã”. Hơn nữa, là một kẻ vô danh tiểu tốt, tôi tin rằng dù cho tôi có mơ một giấc mơ vĩ đại đến đâu thì cũng không thể trở thành một một mục sư Martin Luther King để giúp người da đen với bài diễn văn nổi tiếng “I Have a Dream” (tôi mơ một giấc mơ) hay làm thay đổi được bất cứ điều gì kể cả làm cho một cọng cỏ biến mất. Bởi vì ngay cả khi tỉnh thức “đàng hoàng”, nếu như muốn cho cọng cỏ biến mất, tôi có vận dụng toàn bộ sức mạnh ý chí cũng không thể làm được ngoại trừ...cho nổ máy cắt cỏ.
Thế nhưng khi nghiệm lại những giấc chiêm bao, tôi thấy rằng ngay cả trong khi mơ, tôi cũng không thoát khỏi “bàn tay sắt” của ý chí. Cái gì tôi biết là xấu, bị cấm hay phạm pháp, tôi không thể làm được trong chiêm bao dù tôi thấy mình rất muốn thử. Chẳng hạn, trong thời gian tôi cữ ngọt theo lời khuyên của bác sĩ, thì trong lúc chiêm bao, tôi thấy mình được mời ăn những món khoái khẩu như bánh bò, bánh trôi, chè đậu ván, chè đậu đỏ...Thế nhưng dù mơ đi mơ lại, dù thấy đủ món ngon, của ngọt, cứ hễ sắp ăn thì y như rằng có những chuyện gì đó xảy ra để rồi không ăn được. Khi còn phì phèo, trong mơ tôi hút thuốc liên chi. Vậy mà sau khi bỏ thuốc, hễ được mời thì tôi cũng không sao tìm ra hột quẹt, cứ cầm điếu thuốc vân vê. Cũng vậy, thời “ra đi không có ngày về”, hễ nằm chiêm bao thấy hè đến chuẩn bị về thăm nhà là thế nào cũng có “sự cố” xảy ra. Tìm được chỗ trên xe đò thì rồi cũng phải xuống xe vì mấy “ổng” đắp mô. Dùng đường hàng không thì nếu không đến phi trường trễ thì cũng làm mất vé máy bay. Lên được máy bay thì lại bị đình hoãn...
Một đêm, tôi chiêm bao thấy mình được chứng kiến một mẩu đối thoại giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu. Tôi thấy Chúa Giêsu vừa từ trần gian quay trở về Thiên đàng sau khi hoàn tất sứ mạng Cứu Chuộc loài người. Chúa Cha giang tay ra đón Chúa Con và hỏi:
“Này con, trong thời gian sống nơi trần thế, cái gì con thấy là khó làm nhứt?”
Tôi chờ đợi và đoán câu trả lời sẽ là “sứ mạng Cứu Chuộc”. Thế nhưng, bé cái lầm.
Chúa Con đắn đo một lúc rồi từ tốn trả lời:
“Thưa Cha, con thấy cái khó nhứt là làm NGƯỜI!!...”
Đến đó thì tôi tỉnh giấc. Thấy chưng hửng ngạc nhiên và tức cười. Nhưng cũng thấy có cái gì quen quen. Giấc chiêm bao đang “vạch” chính “áo” của tôi lên để tôi được “xem lưng” chính mình.
Thực vậy, có rất nhiều định nghĩa về Thiên Chúa như Chúa các Đạo binh, Đấng Toàn Năng, Thẩm Phán tối cao...Thiên Chúa trong tôi luôn chỉ là hình ảnh một người Cha bình dị nhưng có một tình thương, sự quan tâm, gần gũi, độ lượng vô bờ bến với tất cả chúng sinh.
Có điều tôi đã mang cả nỗi thao thức của chính mình vào giấc chiêm bao: Cho đến bây giờ, cho dẫu đã bước vào giai đoạn cuối của một “kiếp người”, tôi phải thú nhận rằng, trong cuộc đời này, chuyện khó nhứt mà tôi chưa làm được vẫn là chuyện LÀM NGƯỜI.
Mới đây, tôi đã say mê đọc hồi ký “Ngàn Giọt Lệ Rơi” của bà Yung Krall- Đặng Mỹ Dung, vừa mới được phát hành tại Úc đại lợi. Tác phẩm không chỉ ghi lại thảm kịch đau thương của một gia đình ly tán vì ý thức hệ hay một câu chuyện trinh thám hồi hộp. Đối với tôi, hồi ký của bà Đặng Mỹ Dung còn là một cuốn sách “học làm người”. Xuyên suốt cuốn sách của bà là những trang ghi lại những cuộc chiến đấu giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và gian tà, giữa lương tâm và vô đạo, giữa nhân tính và thú tính. Tác giả cho biết ngay từ tiểu học, “những gì trường dạy hay, tôi biên vô cuốn tập riêng để thực hành. Không có ba thì có trường, có cô giáo; tôi nghĩ như vậy.
Tôi gò từng chữ trong cuốn tập “học làm người”.
Không phá của công;
Không xả rác ngoài đường;
Phái nhường ghế cho người già, đàn bà có thai trên xe đò;
Dắt em bé hay cụ già qua đường;
Không gian lận.” (trang 119)
Đặc biệt tác giả thường nhớ lại lời “vàng ngọc” của ông ngoại mình: “Làm người khó làm chó dễ”. Mặc dù con và rể trong nhà theo kháng chiến chống Pháp và sau đó chạy theo lý tưởng cộng sản, ông vẫn thề không đội trời chung với cộng sản. Mỗi lần nhắc đến Hồ Chí Minh, ông đều gọi “thằng chó đẻ”. Có lẽ vì hay nghĩ đến “thằng chó đẻ” này mà ông cứ tâm niệm câu “làm người khó làm chó dễ”.
Ngay từ thuở bé, tác giả Đặng Mỹ Dung đã nhận thấy rằng thực hành được lời dạy của ông ngoại không phải là chuyện dễ. Tác giả kể lại: “Vậy mà cũng có lần, vì làm biếng, sợ khó khăn, tôi đã liều nói với ông tôi: “Thôi bữa nay ông cho cháu làm chó đi”. Ông nhìn tôi một lúc, tỏ vẻ thất vọng, rồi dịu dàng nói: “Hễ muốn làm chó, cháu phải đi bốn chưn, rồi được ăn, được ngủ, được vui chơi, khỏi học bài, khỏi làm việc trong nhà, được chị em và cả ông bà hầu hạ suốt ngày”. Tôi mắc cỡ không đòi làm chó nữa.” (sđd trang 219)
Quả thực, “làm người khó làm chó dễ”. Làm chó dễ bởi vì thú vật không có ý thức, không có suy nghĩ, không phải đắn đo, không phải chọn lựa giữa thiện và ác, không phải bị lương tâm dày vò cắn rứt khi làm điều ác.
Chợt nhớ lại lời của triết gia Pháp Blaise Pascal “con người không phải là thiên thần cũng không phải là thú vật. Ai muốn làm thiên thần đều làm thú vật”.Tôi chưa từng mơ ước được làm thiên thần, bởi lẽ lịch sử đã chứng minh, biết bao nhiêu kẻ muốn làm thiên thần đều cuối cùng trở thành “quái vật” chỉ biết cắn xé người đồng loại của mình. Tôi sẽ xấu hổ biết chừng nào khi bị người khác gọi là “thằng chó đẻ”.
“Làm người khó”, nhưng tôi vẫn cương quyết được “làm người” và cố học “làm người”. Nếu có một kiếp sau, thì khác với cụ Nguyễn công Trứ, tôi vẫn muốn làm người, chứ không chỉ “làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét