Chu Thập
30.06.11
Như mọi người, tôi thường nằm chiêm bao.
Và cũng như mọi người, tôi thường quên béng sau khi thức dậy. Theo các nhà khoa
học, người ta thường nằm mơ từ 4 đến 7 tiếng đồng hồ mỗi đêm. Như vậy, “sinh hoạt”
trong những giấc chiêm bao cũng chiếm không dưới một phần sáu cuộc đời của tôi.
Thế nhưng, điều ấy cũng chẳng làm cho tôi quan tâm đến chuyện “mơ mộng”. Đơn giản
bởi vì tôi nghĩ rằng điều gì nằm ngoài sự điều khiển của ý thức thì quan tâm đến
để làm gì, chỉ tổ ôm thêm một đống âu lo không đi tới đâu mà thôi. Tôi sợ nhứt
là cứ phải đêm đến mơ thấy có kẻ thù định giết mình, sáng ra cứ ngồi trước ngõ
mà chờ hắn, nhưng chờ hoài không thấy kẻ thù mà chính mình cứ phải chết dần chết
mòn trong thù hận.
Khi còn là một nhóc con, tôi nổi tiếng
trong nhà vì vừa chiêm bao lia chia vừa chạy chơi lung tung khắp chốn. Tôi nghĩ
giấc mơ tuổi thơ của tôi thời thập niên 1950 chắc cũng không khác gì giấc mơ của
hầu hết trẻ em Việt Nam hôm nay: mơ thấy đói lả, thấy được ăn những món ăn
ngon, được mặc quần áo đẹp, và nhứt là thấy mình được chơi đùa thỏa thích mà
không phải đi học. Đến thời thanh niên trai trẻ, đặt lưng xuống là đi ngay, tôi
chẳng nhớ gì cả, ngoại trừ những cơn ác mộng thấy bị...công an xét giấy, đi vượt
biên bị “bể” phải chạy thục mạng hay khi đã định cư tại Đệ Tam quốc gia mà vẫn
mơ thấy mình còn đang kẹt tại quê nhà. Những lúc đó tỉnh dậy, toát mồ hôi trán,
mừng hết lớn! Còn bây giờ, ở tuổi “ngang tầm thời đại” với các bác cao niên,
tôi có thể nhớ những giấc chiêm bao một cách rõ ràng hơn. Đôi khi cũng có tình
tiết “đàng hoàng” để tôi có thể làm cho nhà tôi cười mệt nghỉ trong buổi ăn
sáng. Mà thực vậy, trong giấc mơ, câu chuyện hợp lý, nhiều tình tiết và hấp dẫn
bao nhiêu thì khi kể lại, chúng buồn cười, vô lý và chẳng ra đầu đuôi tai nheo
gì cả. Nhưng dù sao, tôi thấy mình cũng vẫn may mắn hơn các em bé ở Việt nam
ngày nay. Tôi tin chắc như đinh đóng cột rằng mình chưa bao giờ bị “hôm qua em mơ gặp Bác Hồ”. Nếu một đêm
nào mà tôi rủi mơ trúng chuyện này thì chắc tôi sẽ...trốn chui trốn nhủi ngay
trong giấc chiêm bao của mình chứ dứt khoát không còn mặt mũi nào để thức dậy
nhìn đời được nữa.
Có lúc tôi tự hỏi mình có mắc chứng
dementia (lú lẫn) không. Bởi vì có những chuyện từ cái thuở hồi nẳm, có những
người tôi còn không nhớ nổi tên tuổi, có những khung cảnh, nơi chốn, những sinh
hoạt thời mới có trí khôn...bỗng dưng thỉnh thoảng “trồi” lên một cách sống động
trong những giấc chiêm bao của tôi. Không lẽ bộ não của tôi đã mòn hết bên
ngoài để lộ ra tới lớp trong cùng rồi hay sao? Nhưng thôi, cũng không hề chi. Bởi
vì chuyện chiêm bao không hề làm cho cuộc sống của tôi sứt mẻ đi chút nào mà
trái lại, tôi thấy mình hằng đêm được đi chu du khắp chốn, thăm người này một
chút, ghé chỗ kia một chút. Sướng nhứt là vừa không tốn tiền, tốn thì giờ, cũng
không phải ngồi máy bay ê lưng vừa có những cuộc hội ngộ hết sức bất ngờ, cảm động
ở khắp mọi nơi trên thế giới. Buồn cười nhứt là có bữa tôi chiêm bao thấy mình
đang tham dự như là một thành viên của Quốc hội Hoa kỳ!! Cũng may, trong giấc
mơ, dù thấy mình tự dưng “cũng ngang hàng
như người ta” tôi khoái chí lắm nhưng chỉ dám ngồi yên chứ không đủ can đảm
để tính tới chuyện “phân hóa nội bộ”
nước Mỹ như chủ tịch Nguyễn Minh Triết. Kể cũng thật lý thú.
Giấc chiêm bao tự nó không mang đến một
hệ quả nào cả nếu như không có một lời giải thích mà dựa theo đó người ta tạo
thành hiện thực. Một trong những câu chuyện chiêm bao nổi tiếng được ghi vào lịch
sử xa xưa nhứt của nhân loại có lẽ là chuyện ông Giuse giải thích những giấc
chiêm bao của vua Pharaon bên Ai Cập.
Kinh Thánh Do Thái Giáo ghi lại rằng, ông Giuse là một người có tài giải nghĩa
chiêm bao. Cũng vì chuyện này mà ông bị các anh em ghét bỏ đến độ định giết bằng
cách quăng vào một cái giếng sâu. Cuối cũng họ quyết định bán ông cho lái buôn
cho khuất mắt. Lưu lạc đến Ai cập, ông phải phục vụ trong nhà một quan thái
giám của vua Pharaon. Ông được tin cẩn và khen thưởng vì sự khôn ngoan và siêng
năng. Ông cũng được biết đến vì những lời giải mộng. Một lần trong tù, ông được
yêu cầu giải thích về giấc mơ của hai người bạn tù là hai ông quan trong triều
đình của Pharaon. Lời giải thích của ông hoàn toàn chính xác để sau đó một ông
được phục chức trong khi ông kia lại bị bay đầu.
Thế nhưng phải đợi đến khi cả nước Ai cập
bị “bí” trước những giấc mơ của Pharaon, ông Giuse mới thực sự trở nên nổi tiếng
và trở thành ân nhân cho không những toàn cõi Ai cập mà còn cho cả gia đình của
ông bao gồm cả mấy ông anh “trời đánh” đã nhẫn tâm tìm cách làm hại ông.
Pharaon nằm chiêm bao thấy bảy bông lúa lép và xấu nuốt chửng bảy bông lúa mẩy
và chắc. Một giấc chiêm bao khác thì bảy con bò gầy guộc xấu xí nuốt chửng bảy
con bò đẹp đẽ béo tốt. Không ai giải thích được kể cả các thày phù thủy Ai cập.
Cuối cùng, anh chàng Hipri nô lệ Giuse được gọi đến. Lần này lời giải thích của
ông không gây đổ máu, cũng không liên quan gì đến một nhóm “thất nhân bang” nào
trong triều đình. Ông đã giải thích giấc chiêm bao của Pharaon như ngày nay khoa
học giải thích về hiện tượng La Nina và El Nino: Ai cập sẽ có bảy năm mưa thuận
gió hòa và nối tiếp bằng bảy năm khô hạn mất mùa. Ông cũng đưa ra những lời
khuyên thiết thực để có thể đối phó với hoàn cảnh.
Nhờ lời giải mộng này, Giuse trở thành tể
tướng Ai cập. Ông cũng giúp đỡ và đưa gia đình cha mẹ anh em sang Ai cập tránh
nạn đói và định cư, sinh sôi nảy nở thành một cộng đồng Do thái lớn mạnh sau
này.
Thời nay, tìm được một ông Giuse trong
Kinh Thánh không phải là dễ, nhưng những ông tiên tri “nói thánh nói tướng” thì
ở đâu và thời nào cũng vô số kể. Tôi không tin ở lời giải mộng của các tiên tri
ấy. Cùng lắm tôi chỉ tìm đến các đệ tử của Sigmund Freud để nhờ giúp “đào sâu”
trong tiềm thức của tôi để xem tại sao tôi thường mơ về chuyện này mà không về
chuyện khác. Với tôi, những giấc chiêm bao cũng chỉ là những sinh hoạt thường
ngày trong đời sống chứ không như một điều cần phải “giải mã”. Hơn nữa, là một
kẻ vô danh tiểu tốt, tôi tin rằng dù cho tôi có mơ một giấc mơ vĩ đại đến đâu
thì cũng không thể trở thành một một mục sư Martin Luther King để giúp người da
đen với bài diễn văn nổi tiếng “I Have a
Dream” (tôi mơ một giấc mơ) hay làm thay đổi được bất cứ điều gì kể cả làm
cho một cọng cỏ biến mất. Bởi vì ngay cả khi tỉnh thức “đàng hoàng”, nếu như muốn
cho cọng cỏ biến mất, tôi có vận dụng toàn bộ sức mạnh ý chí cũng không thể làm
được ngoại trừ...cho nổ máy cắt cỏ.
Thế nhưng khi nghiệm lại những giấc
chiêm bao, tôi thấy rằng ngay cả trong khi mơ, tôi cũng không thoát khỏi “bàn
tay sắt” của ý chí. Cái gì tôi biết là xấu, bị cấm hay phạm pháp, tôi không thể
làm được trong chiêm bao dù tôi thấy mình rất muốn thử. Chẳng hạn, trong thời
gian tôi cữ ngọt theo lời khuyên của bác sĩ, thì trong lúc chiêm bao, tôi thấy
mình được mời ăn những món khoái khẩu như bánh bò, bánh trôi, chè đậu ván, chè
đậu đỏ...Thế nhưng dù mơ đi mơ lại, dù thấy đủ món ngon, của ngọt, cứ hễ sắp ăn
thì y như rằng có những chuyện gì đó xảy ra để rồi không ăn được. Khi còn phì
phèo, trong mơ tôi hút thuốc liên chi. Vậy mà sau khi bỏ thuốc, hễ được mời thì
tôi cũng không sao tìm ra hột quẹt, cứ cầm điếu thuốc vân vê. Cũng vậy, thời
“ra đi không có ngày về”, hễ nằm chiêm bao thấy hè đến chuẩn bị về thăm nhà là
thế nào cũng có “sự cố” xảy ra. Tìm được chỗ trên xe đò thì rồi cũng phải xuống
xe vì mấy “ổng” đắp mô. Dùng đường hàng không thì nếu không đến phi trường trễ
thì cũng làm mất vé máy bay. Lên được máy bay thì lại bị đình hoãn...
Một đêm, tôi chiêm bao thấy mình được chứng
kiến một mẩu đối thoại giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu. Tôi thấy Chúa Giêsu vừa từ
trần gian quay trở về Thiên đàng sau khi hoàn tất sứ mạng Cứu Chuộc loài người.
Chúa Cha giang tay ra đón Chúa Con và hỏi:
“Này con, trong thời gian sống nơi trần
thế, cái gì con thấy là khó làm nhứt?”
Tôi chờ đợi và đoán câu trả lời sẽ là “sứ
mạng Cứu Chuộc”. Thế nhưng, bé cái lầm.
Chúa Con đắn đo một lúc rồi từ tốn trả lời:
“Thưa Cha, con thấy cái khó nhứt là làm
NGƯỜI!!...”
Đến đó thì tôi tỉnh giấc. Thấy chưng hửng
ngạc nhiên và tức cười. Nhưng cũng thấy có cái gì quen quen. Giấc chiêm bao
đang “vạch” chính “áo” của tôi lên để tôi được “xem lưng” chính mình.
Thực vậy, có rất nhiều định nghĩa về
Thiên Chúa như Chúa các Đạo binh, Đấng Toàn Năng, Thẩm Phán tối cao...Thiên
Chúa trong tôi luôn chỉ là hình ảnh một người Cha bình dị nhưng có một tình
thương, sự quan tâm, gần gũi, độ lượng vô bờ bến với tất cả chúng sinh.
Có điều tôi đã mang cả nỗi thao thức của
chính mình vào giấc chiêm bao: Cho đến bây giờ, cho dẫu đã bước vào giai đoạn
cuối của một “kiếp người”, tôi phải thú nhận rằng, trong cuộc đời này, chuyện
khó nhứt mà tôi chưa làm được vẫn là chuyện LÀM NGƯỜI.
Mới đây, tôi đã say mê đọc hồi ký “Ngàn Giọt Lệ Rơi” của bà Yung Krall- Đặng
Mỹ Dung, vừa mới được phát hành tại Úc đại lợi. Tác phẩm không chỉ ghi lại thảm
kịch đau thương của một gia đình ly tán vì ý thức hệ hay một câu chuyện trinh
thám hồi hộp. Đối với tôi, hồi ký của bà Đặng Mỹ Dung còn là một cuốn sách “học làm người”. Xuyên suốt cuốn sách của
bà là những trang ghi lại những cuộc chiến đấu giữa thiện và ác, giữa chính
nghĩa và gian tà, giữa lương tâm và vô đạo, giữa nhân tính và thú tính. Tác giả
cho biết ngay từ tiểu học, “những gì trường
dạy hay, tôi biên vô cuốn tập riêng để thực hành. Không có ba thì có trường, có
cô giáo; tôi nghĩ như vậy.
Tôi
gò từng chữ trong cuốn tập “học làm người”.
Không
phá của công;
Không
xả rác ngoài đường;
Phái
nhường ghế cho người già, đàn bà có thai trên xe đò;
Dắt
em bé hay cụ già qua đường;
Không
gian lận.” (trang
119)
Đặc biệt tác giả thường nhớ lại lời
“vàng ngọc” của ông ngoại mình: “Làm người
khó làm chó dễ”. Mặc dù con và rể trong nhà theo kháng chiến chống Pháp và
sau đó chạy theo lý tưởng cộng sản, ông vẫn thề không đội trời chung với cộng sản.
Mỗi lần nhắc đến Hồ Chí Minh, ông đều gọi “thằng chó đẻ”. Có lẽ vì hay nghĩ đến
“thằng chó đẻ” này mà ông cứ tâm niệm câu “làm
người khó làm chó dễ”.
Ngay từ thuở bé, tác giả Đặng Mỹ Dung đã
nhận thấy rằng thực hành được lời dạy của ông ngoại không phải là chuyện dễ. Tác
giả kể lại: “Vậy mà cũng có lần, vì làm
biếng, sợ khó khăn, tôi đã liều nói với ông tôi: “Thôi bữa nay ông cho cháu làm
chó đi”. Ông nhìn tôi một lúc, tỏ vẻ thất vọng, rồi dịu dàng nói: “Hễ muốn làm
chó, cháu phải đi bốn chưn, rồi được ăn, được ngủ, được vui chơi, khỏi học bài,
khỏi làm việc trong nhà, được chị em và cả ông bà hầu hạ suốt ngày”. Tôi mắc cỡ
không đòi làm chó nữa.” (sđd
trang 219)
Quả thực, “làm người khó làm chó dễ”. Làm chó dễ bởi vì thú vật không có ý thức,
không có suy nghĩ, không phải đắn đo, không phải chọn lựa giữa thiện và ác,
không phải bị lương tâm dày vò cắn rứt khi làm điều ác.
Chợt nhớ lại lời của triết gia Pháp
Blaise Pascal “con người không phải là
thiên thần cũng không phải là thú vật. Ai muốn làm thiên thần đều làm thú vật”.Tôi
chưa từng mơ ước được làm thiên thần, bởi lẽ lịch sử đã chứng minh, biết bao
nhiêu kẻ muốn làm thiên thần đều cuối cùng trở thành “quái vật” chỉ biết cắn xé
người đồng loại của mình. Tôi sẽ xấu hổ biết chừng nào khi bị người khác gọi là
“thằng chó đẻ”.
“Làm người khó”, nhưng tôi vẫn cương quyết
được “làm người” và cố học “làm người”. Nếu có một kiếp sau, thì khác với cụ
Nguyễn công Trứ, tôi vẫn muốn làm người, chứ không chỉ “làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét