29/06/18

Xhaka và Shaqiri, cả hai đều chào đời tại Kosovo, vùng đất đã từng là một
tỉnh thuộc Cộng hòa Serbia. Cũng như hàng trăm ngàn người khác, trong cuộc chiến
chống lại các lực lượng Serbia để giành độc lập trong hai năm 1998 và 1999, gia
đình của Xhaka và Shaqiri đã xin tỵ nạn tại Thụy Sĩ. Tuy không có những số liệu
chính thức, nhưng người ta ước lượng hiện nay có đến 200.000 người Kosovo gốc
Albani đang sinh sống tại Thụy Sĩ. Đây là một tỷ lệ khá lớn nếu so với dân số
Kosovo hiện chỉ có khoảng 1.8 triệu người. Cùng với những người đồng hương đang
sống tại Đức, những người Kosovo gốc Albani tại Thụy Sĩ là một trong những nguồn
lợi lớn cho quê nhà: mỗi năm họ gởi về Kosovo khoảng 176 triệu Mỹ kim.
Cuộc di dân của người Kosovo đã xảy ra ngay cả trước khi
cuộc chiến bùng nổ giữa Kosovo và Serbia. Đương kim Thủ tướng Kosovo, ông
Ramush Haradinaj cũng đã từng sống ở Thụy Sĩ và làm việc như một huấn luyện
viên môn Thái cực đạo trước khi trở về Kosovo để tham gia lãnh đạo chiến tranh
du kích giành độc lập. Cuộc chiến đã làm cho khoảng 13.500 người bị thiệt mạng,
trong số này có hơn 10.000 nạn nhân là người Kosovo thuộc sắc tộc Albani. Cuộc
chiến đã chấm dứt nhờ sự can thiệp của Liên minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương
(NATO). Các cuộc không kích của NATO đã khiến cho các lực lượng của nhà độc tài
Milosevic phải rút lui. Năm 2008, nghĩa là không đầy một thập niên sau, Kosovo
đã tuyên bố độc lập khỏi Serbia với danh hiệu đầy đủ là Cộng hòa Kosovo. Tuy
nhiên cho tới nay, với sự yểm trợ của đồng minh lâu đời là Nga, Serbia vẫn
không chịu nhìn nhận nền độc lập của Kosovo.
Sự có mặt của hai tuyển thủ Xhaka và Shaqiri trong đội
tuyển quốc gia Thụy Sĩ để thi đấu với đội tuyển Serbia và chiến thắng hai anh
đã mang về cho đội tuyển Thụy Sĩ không
thể không gợi lên lịch sử của một cuộc chiến dai dẳng giữa Kosovo và Serbia.
Cuộc xung đột đã khởi đầu ngay từ cuối Thế kỷ 19 khi người
Albani bị trục xuất ra khỏi Serbia và Kosovo bị sáp nhập vào Serbia. Căng thẳng
giữa các cộng đồng Serbia và người Albani tại Kosovo ngày càng gia tăng và kéo
dài trong suốt Thế kỷ 20. Sau Đệ nhị Thế chiến, Thống chế Josip Broz Tito đã đè
bẹp tất cả mọi biểu hiện của tinh thần ái quốc của mọi sắc tộc trong Liên bang
Nam Tư. Cách riêng, để kìm hãm Serbia là cộng hòa lớn nhất và có đông dân số nhất
trong liên bang, ông đã cho thiết lập những chính quyền tự trị tại Tỉnh
Vojvodina, ở miền Bắc Serbia và Kosovo, miền Nam cộng hòa này. Thật ra, sự tự
trị mà Thống chế Tito dành cho Tỉnh Kosovo chỉ có trên danh nghĩa. Trong thực tế,
mật vụ Liên bang vẫn tiếp tục đàn áp những nhà ái quốc. Năm 1956, nhiều nhà ái
quốc Albani tại Kosovo đã bị đem ra xét xử vì tội gọi là gián điệp và phản động.
Cũng như các chế độ cộng sản khác trên khắp thế giới,
Liên bang Nam Tư không tránh khỏi những cuộc khủng hoảng về chính trị và nhất
là kinh tế. Tháng Sáu năm 1968, các cuộc biểu tình của sinh viên tại Thủ đô
Belgrade đã tràn xuống Kosovo. Thống chế Tito đành phải nhượng bộ trước một số
đòi hỏi của sinh viên. Riêng tại Kosovo, tiếng Albani được công nhận và Đại học
Pristina được thành lập, sau một thời gian dài chỉ được xem như một chi nhánh của
Đại học Belgrade.
Năm 1969, Giáo hội Chính thống, vốn là tôn giáo của đa số
dân Serbia, đã yêu cầu hàng giáo sĩ phải điều tra về những vấn đề của người
Serbia tại Kosovo. Giáo hội này tạo áp lực lên chính phủ trung ương để bảo đảm
quyền lợi của người Serbia tại Kosovo, châm ngòi cho những xung đột vốn đã âm ỉ
giữa hai sắc dân.
Năm 1970, quy chế chính trị của Kosovo được cải thiện phần
nào khi hiến pháp mới của Nam Tư dành cho vùng này một số quyền chính trị. Được
nhìn nhận là một tỉnh trong liên bang, Kosovo có được một ghế trong quốc hội
liên bang cũng như có riêng một nghị viện, một lực lượng cảnh sát và một ngân
hàng riêng.
Năm 1980, Thống chế Tito qua đời. Những thành phần cực
đoan trong Đảng Cộng sản Nam Tư ngăn cấm mọi biểu hiện của tinh thần ái quốc. Tất
cả những cuộc biểu tình đều bị đè bẹp. Theo ước tính, có đến gần 6 trăm ngàn
người Kosovo bị bắt giữ, thẩm vấn, giam giữ. Nhiều người bị đuổi khỏi các công
sở, nhất là cơ sở giáo dục. Bên cạnh đó, mối căng thẳng giữa 2 cộng đồng Albani
và Serbia tại Kosovo cũng gia tăng.
Tình hình kinh tế của Kosovo lại càng tồi tệ hơn. Bị số
đông người Albani kỳ thị nhiều người Serbia đã rời bỏ Kosovo để đến Belgrade
tìm việc làm.
Đây cũng là thời kỳ người kế vị Thống chế Tito là
Slobodan Milosevic bắt đầu cai trị bằng bàn tay sắt. Là người Serbia, ông đã tỏ
ra thiên vị hẳn với người Serbia tại Kosovo. Ông ra lệnh giải tán Nghị viện
Kosovo. Năm 1990, bất chấp lệnh của ông Milosevic và những cuộc đàn áp dã man của
chính phủ trung ương, Nghị viện Kosovo cho công bố Hiến pháp của Cộng hòa
Kosovo. Theo báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc, năm 1993, cảnh sát đã
gia tăng các cuộc đàn áp nhắm vào người Kosovo.
Đây là giai đoạn nổ ra các cuộc chiến giành độc lập của
các cộng hòa trong Liên bang Nam Tư như Slovenia, Croatia và Bosnia. Năm 1997,
Milosevic được bầu làm tổng thống của Liên bang Nam Tư.
Bị dồn vào bước đường cùng, các lãnh tụ của Kosovo thấy
không còn con đường tranh đấu nào khác hơn là chiến tranh vũ trang. Dưới danh
nghĩa “quân đội giải phóng Kosovo”, du kích quân Albani đã giáng những đòn chí
tử xuống các lực lượng an ninh liên bang.
Trước các cuộc đụng độ ngày càng gia tăng cường độ, cộng
đồng thế giới đã can thiệp. Tình hình Liên bang Nam Tư ngày càng rối ren. Chiến
tranh không chỉ diễn ra giữa Kosovo và Chính phủ liên bang, mà còn giữa liên
bang và các cộng hòa khác trong liên bang. Với Hiệp ước Dayton đạt được dạo
tháng Mười Hai năm 1997, Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu Chính phủ liên bang phải đáp
ứng những đòi hỏi của cộng đồng Albani tại Kosovo. Nhưng phái đoàn Nam Tư đã bỏ
ra về và không chịu tôn trọng hiệp ước.
Cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Tháng Năm năm 1998, quân
dội Nam Tư bắt đầu mở một cuộc hành quân tại biên giới để tiêu diệt quân đội giải
phóng Kosovo. Liên minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương NATO đã đáp trả hành động
này bằng chiến dịch được mệnh danh là Falcon: máy bay của Liên minh đã biểu
dương lực lượng ngay tại nơi Nam Tư truy lùng các du kịch quân Kosovo.
Trong thời gian này, qua trung gian của Tổng thống Nga
Boris Yeltsin, Milosevic đã đạt được một thỏa thuận để chấm dứt các cuộc hành
quân và chuẩn bị thương thuyết với Kosovo. Với thỏa thuận này, đại diện Liên Hiệp
Quốc cũng được gởi đến Kosovo để theo
dõi tình hình. Nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục leo thang.
Tháng Sáu năm 1998, do mối đe dọa của Nam Tư và Serbia đối
với an ninh và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, Tổng thống Bill Clinton đã
tuyên bố tình trạng khẩn trương. Ba tháng sau, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
thông qua nghị quyết 1199 qua đó bày tỏ mối quan ngại sâu xa về sự kiện 230.000
người dân Kosovo phải di tản trước việc sử dụng bạo lực của quân đội Nam Tư và
các lực lượng an ninh của Serbia. Cũng qua nghị quyết này, Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc yêu cầu Nam Tư (gồm có Serbia và Montenegro) chấm dứt sự thù nghịch
và ngưng bắn. Ngoài ra nhiều nỗ lực cũng được thực hiện nhằm thuyết phục Tổng
thống Milosevic cho phép quân đội gìn giữ hòa bình của NATO được vào Kosovo.
Nhưng Milosevic không tôn trọng và cũng không chấp nhận bất
cứ một thỏa hiệp nào. Quân đội Nam Tư vẫn tiếp tục các cuộc hành quân. Tháng
Giêng năm 1999, quân đội Nam Tư đã tàn sát 45 người Albani tại làng Racak. Các
nước Tây Phương và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã mạnh mẽ lên án hành động
dã man này. Và đây cũng chính là giọt nước tràn ly khiến NATO quyết định can
thiệp bằng quân sự. Tháng Sáu năm 1999, NATO đã bắt đầu các cuộc không tạc.
Hàng ngàn oanh tạc cơ của Liên Minh từ các căn cứ ở Ý và các hạm đội trong Biển
Adriatic đã dội bom xuống Thủ đô Belgrade. Trong khi đó các nhà thương thuyết của
Phần Lan và Nga vẫn tiếp tục thuyết phục Milosevic ngưng các cuộc hành quân và
rút ra khỏi Kosovo, nhưng ông vẫn cương quyết tử thủ. Cuối cùng khi nhận thậy
Nga, đồng minh lúc nào cũng chống lại Liên minh NATO, không chịu can thiệp để bảo
vệ Nam Tư, Milosevic mới đồng ý để cho quân đội NATO được vào Kosovo.
Ngày 3 tháng Sáu năm 1999, nhà độc tài này mới chấp nhận
những điều khoản của một kế hoạch hòa bình do cộng đồng thế giới đề ra để chấm
dứt cuộc chiến và ra lệnh cho quân đội rút ra khỏi Kosovo.
Cuộc chiến đã khiến cho từ 1.2 triệu đến 1.45 triệu người
Albani tại Kosovo phải di tản. Sau chiến tranh gần một triệu người tỵ nạn từ các nước láng giềng đã trở về
Kosovo.
Tháng Mười Một năm 2001, Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu
Châu đã giám sát các cuộc bầu cử đầu tiên tại Kosovo. Nhưng mãi cho đến tháng
Hai năm 2008, Kosovo mới chính thức tuyên bố độc lập khỏi Serbia. Tính đến
tháng Hai năm 2018, đã có 113 nước trên thế giới nhìn nhận Kosovo như một quốc
gia độc lập. Riêng Serbia, cho tới nay vẫn chưa chịu nhìn nhận nền độc lập này.
Không nhìn nhận Kosovo như một quốc gia độc lập, Serbia
cũng tìm cách ngăn cản không để cho các đội thể thao của Kosovo được tham gia
vào các cuộc thi đấu quốc tế. Tuy nhiên áp lực của Serbia đã không có hiệu quả.
Kosovo đã được Ủy ban Thế Vận Quốc Tế chính thức nhìn nhận năm 2014 và 2 năm
sau được nhận vào Hiệp hội Túc cầu Âu châu UEFA cũng như Hiệp hội Túc cầu Thế
giới FIFA.
Dạo tháng Năm vừa qua, Serbia đã không cho đội lực sĩ
Thái cực đạo của Kosovo được đến nước mình để tranh giải Vô địch Âu Châu.
Nhưng thái độ thù nghịch của Serbia đối với Kosovo đã
không ngăn được làn sóng ủng hộ của thế giới dành cho Kosovo qua sự hiện diện của
hai tuyển thủ Xhaka và Shaqiri trong đội tuyển quốc gia Thụy Sĩ. Nhiều người
Kosovo nói rằng “Khi Thụy Sĩ thi đấu thì Kosovo cũng thi đấu”.
Một ngôi làng nhỏ tại miền đông Kosovo tự nhận là “Thụy
Sĩ nhỏ”, bởi vì tất cả 450 gia đình tại đây đều có bà con đang sinh sống tại Thụy
Sĩ. Một ký giả Kosovo nói: “Dân mê túc cầu tại đây sẽ vui mừng vì chiến thắng của
Thụy Sĩ còn hơn cả người Thụy Sĩ”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét