Chu Thập
13/06/18
Chuyện bên lề Giải Túc Cầu Thế Giới 2018: một cặp vợ chồng
Nga ly dị chỉ vì cãi nhau về địa vị cầu thủ số một thế giới. Theo một tờ báo địa
phương của Nga, cuộc cãi vã giữa cặp vợ chồng đã xảy ra sau khi đội tuyển Á Căn
Đình hạ đội tuyển Nigeria ở vòng loại. Với người chồng, Lionel Messi là cầu thủ
số một thế giới. Nhưng người vợ thì lại khăng khăng bảo vệ lập trường của mình:
Cristiano Ronaldo, thủ quân đội Bồ Đào Nha mới xứng đáng giữ địa vị này. Trên sân cỏ, cuộc
thi đấu nào cũng đều kết thúc hoặc với tỷ số huề nhau hoặc có kẻ thắng người
thua. Nhưng trong trận đấu võ mồm giữa
hai vợ chồng Nga này thì chẳng có huề mà cũng chẳng có ai thắng hay thua cả cho
nên cuối cùng người chồng đành cuốn gói ra đi và sau đó nộp đơn xin ly dị.
Tờ báo địa phương đưa tin trên đây cho biết hai vợ chồng
này đã gặp nhau trong một quán rượu khi cả hai cùng theo dõi Giải Túc Cầu Thế
Giới năm 2002 được tổ chức tại Nhựt Bổn và Đại Hàn. Họ đã lấy nhau vì túc cầu
và cũng chia tay vì túc cầu. Chẳng có quen biết gì cặp vợ chồng Nga này, nhưng
tôi cũng thấy buồn thật! Trên sân cỏ, sau một trận đấu, các cầu thủ còn bắt tay
chào từ biệt nhau. Nhưng trên khán đài hay trước màn ảnh truyền hình, có khi người
ta còn ăn thua đủ với nhau bằng cả bạo lực nữa!
Theo dõi các cuộc thi đấu, tôi không chỉ chú mục vào sân
cỏ, mà còn xem phản ứng của khán giả trên khán đài. Ống kính truyền hình thỉnh
thoảng dừng lại ở những khoảnh khắc đặc biệt nói lên đủ thứ hỉ nộ ái ố của khán
giả. Nơi đây có kẻ nhảy nhót reo hò vì niềm vui chiến thắng. Nơi kia có người mếu
máo khóc. Ở một góc khác, người ta gấu ó tưởng chừng như muốn ăn tươi nuốt sống
nhau. Cứ như thể chính mình là người đang thi đấu!
Ở giữa đám đông, dường như con người dễ mạnh dạn hơn để
biểu lộ con người thật của mình. Đám đông là một thứ xúc tác có thể làm bật lên
những cử chỉ hay hành động mà bình thường người ta không dám hay không muốn
làm. Có người nhờ đám đông để biểu lộ tính lương thiện và những tình cảm tốt đẹp.
Nhưng cũng không thiếu những người bị đám đông lôi kéo để làm những hành động bất
lương và ngay cả tội ác.
Tôi thường nghĩ đến đám đông những người Đức đã tham gia
vào cuộc diệt chủng của Đức Quốc Xã đối với người Do Thái. Vào năm tới 2019, thế
giới sẽ đánh dấu 80 năm ngày Đức Quốc Xã xâm chiếm Ba Lan, khai mào Đệ nhị Thế
chiến và nhứt là khởi xướng cuộc diệt chủng đối với người Do Thái tại Âu Châu.
Dĩ nhiên đó là tội ác của Hitler và Đức Quốc Xã. Nhưng chắc chắn Hitler không
có đủ ba đầu sáu tay để thực hiện một tội ác tày đình như thế. Có cả một đám
đông đứng sau lưng ông và thi hành hiệu lệnh của ông. Thế giới sẽ mãi mãi thắc
mắc tại sao một tội ác tập thể như thế đã có thể xảy ra.
Đã có hàng trăm ngàn người Đức, bình thường như mọi người
dân bình thường khác ở Âu Châu và trên khắp thế giới, đã tham gia một cách có
chủ ý và với đầy đủ ý thức vào cuộc tra
tấn và tàn sát tập thể những người vô tội. Và ngay cả không trực tiếp tham gia
vào tội ác, con số những người bàng quan và
thụ động đứng nhìn các hành động tội ác và biết rõ chủ ý đồi bại của Đức
Quốc Xã không phải là nhỏ. Tại sao điều đó đã có thể xảy ra?
Người Đức không phải là một đám sát nhân bệnh hoạn. Phần
lớn những người Đức đã tích cực tham gia vào tội ác hay thụ động đứng nhìn tội
ác đều là những con người bình thường và có tâm lý ổn định trước khi Hitler lên
cầm quyền. Cuộc sống gia đình của họ cũng giống như cuộc sống của những người
thuộc giai cấp trung lưu trong bất cứ quốc gia Tây Phương nào. Họ có công ăn việc
làm để mưu cầu cuộc sống cho gia đình họ. Họ cũng gởi con đến trường học và
cũng mong cho chúng ăn học thành tài và nên người. Họ cũng quảng đại đóng góp
cho các công cuộc từ thiện ở địa phương. Họ cũng có bạn bè và cũng tham gia các
sinh hoạt xã hội. Họ là những người bình thường như mọi người bình thường trên
trái đất này.
Trước khi Hitler lên cầm quyền, trong số những người tham
gia vào cuộc diệt chủng người Do Thái do Đức Quốc Xã chủ xướng hoặc làm khách
bàng quan đứng nhìn tội ác, không có người nào để lộ bất cứ dấu hiệu nào của bệnh
tâm thần hay khuynh hướng độc ác muốn hãm hại người khác. Họ không hề là người
vô cảm. Họ cũng không hề là những người không sống theo bất cứ một chuẩn mực đạo
đức nào. Khi được tuyển dụng và gởi đến đến các làng mạc của người Do Thái để bắn
giết trẻ con và phụ nữ, một số người chỉ thi hành “sứ mệnh” trong một thời gian ngắn và sau đó bỏ cuộc vì không thể
chịu đựng nổi cảnh chết chóc do chính mình gây ra. Điều đó chứng tỏ họ không hề
là những người máy không có cảm xúc hay những tên sát nhân hàng loạt mắc bệnh
tâm thần.
Theo các tài liệu lưu trữ, không có bất cứ bằng chứng nào
cho thấy những người tích cực tham gia
vào tội ác đã bị cưỡng bách phải thi hành sứ mệnh cả. Tài liệu cho thấy trong số
500 người Đức được tuyển mộ để đi lùng bắt 1800 người Do Thái tại làng Jozefow,
bên Ba Lan, chỉ có đúng 15 người quyết định không tham gia vào tội ác sau khi
được đại tá Wilhelm Trapp cho biết họ phải bắn giết phụ nữ, trẻ con và người
già, nhưng nếu không muốn họ có thể rút lui.
Những người Đức đã tình nguyện đi lùng bắt người Do Thái
hoặc làm việc tại các trại tập trung Auschwitz, Ravensbruck, Dachau và nhiều trại
tập trung khác, nơi các tù nhân bị sát tế trong các lò hơi ngạt hay được sử dụng
như vật thí nghiệm trong các phòng nghiên cứu ...đều xuất phát từ mọi giai tầng xã hội và ngành nghề khác nhau. Họ
là binh sĩ, cảnh sát viên, luật sư, bác sĩ, y tá, thư ký, kỹ sư, nhân công và
ngay cả bậc khoa bảng.
Điều hành các trại tập trung là các sĩ quan quân đội,
nhưng trực tiếp thi hành tội ác lại là những thường dân. Chính những người đã từng
là láng giềng quen biết của người Do Thái lại đứng ra thi hành tội ác. Phần lớn
những người Đức đảm nhận những công việc hàng ngày trong các trại tập trung như
y tá, cai tù...đều không bỏ công việc hoặc xin chuyển đi nơi khác ngay cả sau
khi đã chứng kiến những hành động tội ác
đối với các tù nhân.
Tại sao người Đức đã tích cực tham gia hoặc làm khách
bàng quan đứng nhìn tội ác của Đức Quốc
Xã ? Chỉ có một câu trả lời xem ra thỏa đáng là: họ đã hành động như thế bởi vì
họ nghĩ rằng đó là điều chính đáng và cần thiết!
Họ nghĩ rằng họ đã hành động đúng, bởi vì họ đã bị đầu độc
để ghét người Do Thái. Họ đã được dạy rằng người Do Thái đã tàn phá nền kinh tế
của đất nước và rằng những người Do Thái theo cộng sản Bolchevik tại Mạc Tư
Khoa đang có âm mưu tiêu diệt người Đức và thực hiện một cuộc cách mạng cộng sản
tại Đức.
Họ nghĩ rằng điều họ làm là cần thiết, bởi vì họ tin rằng
người Do Thái là một mối đe dọa lớn cho cuộc sống của người Đức. Thật ra, chủ
nghĩa bài Do Thái không phải là kết quả
của cuộc tuyên truyền của Đức Quốc Xã. Nó đã được khai sinh ngay từ Thế kỷ 19.
Trong cái nhìn của một người Đức bình thường vào thời kỳ đó, Do Thái là một giống
người mưu mô, xảo quyệt, độc ác. Tuy nhiên, phần lớn người Đức có lẽ đã không sẵn
sàng hay có đủ dã tâm để tiêu diệt người Do Thái. Phải đợi cho đến khi Hitler
và Đức Quốc Xã dùng mọi xảo thuật để tuyên truyền và đầu độc, những khuynh hướng
thấp hèn trong những người Đức bình thường mới có cơ hội bừng dậy và hận thù vốn
đã âm ỉ trong tầm hồn họ mới được trút xuống những người vô tội.
Đám đông là một sức mạnh vĩ đại. Đám đông có thể thực hiện
thành công những cuộc cách mạng ôn hòa như thế giới đã chứng kiến tại Phi Luật
Tân năm 1986 hay tại một số nước Bắc Phi qua điều thường được gọi là Mùa Xuân Á
Rập hồi năm 2010. Nhưng như lịch sử đã chứng minh, cũng chính đám đông tạo ra
những nhà độc tài và góp phần vào tội ác. Đám đông người Đức đã đưa Hitler lên
cầm quyền và chuẩn thuận chương trình độc ác của ông thường được mệnh danh là “giải pháp cuối cùng”, tức tiêu diệt người
Do Thái.
Con người thường dễ cảm thấy cô đơn giữa đám đông. Ngày
nay, khi cuộc sống ngày càng được đô thị hóa, con người càng cảm thấy cô đơn
hơn. Hiện tượng tự tử tại những nước có mức sống cao là biểu hiện rõ nét nhứt của
nỗi cô đơn mà cuộc sống dư dật và những tiện nghi vật chất không thể khỏa lấp
được. Nhưng không những con người cảm thấy cô đơn giữa đám đông mà chính đám
đông ngày nay cũng là một đám đông cô đơn. Ngay từ thập niên 1950, tác giả Mỹ David
Rieasman đã nói đến hiện tượng cô đơn của đám đông trong cuốn sách có tựa đề “đám
đông cô đơn” (the lonely crowd). Trong phần kết luận của cuốn sách, tác giả khẳng định: “Tư tưởng cho rằng con người sinh
ra tự do và bình đẳng vừa đúng lại cũng vừa sai”. Theo ông, con người sinh ra
đã khác nhau. Họ đánh mất tự do và độc lập cá nhân khi tìm cách trở thành giống
nhau, tức hòa nhập vào đám đông. Lúc đó những lựa chọn của họ không hoàn toàn
mang tính cá nhân độc lập mà là sản phẩm của thời thế. Vì đánh mất chính mình
cho nên họ mới cảm thấy cô đơn. Và chính vì cô đơn mà đám đông dễ có phản ứng bầy
đàn: ở giữa đám đông, bất cứ một hành động nào, tốt hay xấu, cũng đều có sức
lây lan và lôi cuốn những người xung quanh.
Ngồi một mình trước màn ảnh truyền hình để theo dõi các
trận thi đấu của Giải Túc Cầu Thế Giới, tôi cũng cảm thấy cô đơn. Thật ra, có giây
phút nào mà tôi không cảm thấy cô đơn. Và tôi cũng tin rằng trên thế gian này,
không một ai có thể thoát được cô đơn. Thông minh và nổi tiếng như nhà bác học
Albert Einstein mà cũng có lúc phải thốt lên: “Thật là điều lạ lùng: được cả thế
giới biết đến mà vẫn cảm thấy rất đỗi cô đơn!” Có khi càng giàu có con người lại
càng cảm thấy cô đơn hơn và đỉnh cao của quyền lực cũng là tột đỉnh của cô đơn.
Nhưng cô đơn không phải là tiếng nói cuối cùng trong cuộc sống. Các nhà lãnh đạo
tinh thần, như Đức Đạt Lai Lạt Ma chẳng
hạn, thường xem sự cảm thông như khí giới để chiến đấu chống lại cô đơn. Nói
cho cùng, khi con người biết lấy tình thương, sự cảm thông, lòng quảng đại và sự
tha thứ để đối xử với người khác, họ sẽ vượt qua được nỗi sợ hãi và sự trống rỗng
trong tâm hồn mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét