Chu Thập
Tuần qua, tôi có dịp đi thăm một người dì trong một viện
dưỡng lão. Dì tôi được cho ở trong một căn phòng riêng tương đối yên tĩnh, nhờ
đó, như dì khoe, dì có điều kiện để chú tâm vào việc đọc kinh và cầu nguyện suốt
ngày. Nhưng trong suốt buổi nói chuyện với dì tôi không cảm thấy thoải mái. Cứ
năm ba phút dì lại xem đồng hồ đeo tay, nhìn lên bức chân dung khá lớn của Chúa
Giêsu trên tường. Dì cho biết: ngày nào cũng như ngày nào, cứ đúng 3 giờ chiều
là giờ Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, dì quỳ xuống và giang
tay cầu nguyện, nhứt là cầu nguyện cho những người không chịu hay không biết cầu
nguyện. Không nói ra nhưng có lẽ dì cũng cho tôi vào danh sách những người “nguội
lạnh” ấy. Gần đây, dì cầu nguyện nhiều
hơn vì theo dì, “tận thế” sắp tới nơi rồi; loạn lạc, chiến tranh và đủ thứ tai
họa cũng như sa đọa của con người là những điềm báo về ngày “tận thế”.
Tôi không ngạc nhiên vì sao dì tôi nhìn mọi biến cố đang
xảy ra trên thế giới dưới lăng kính của ngày tận thế. Mỗi ngày chúa nhựt, khi đến
nhà thờ, người tín hữu Kitô nào mà chẳng tuyên xưng rằng “ngày sau hết”, tức
ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét người đang sống
cũng như kẻ đã chết. Nhưng chẳng ai biết được khi nào ngày tận thế sẽ đến. Lúc
nhỏ, tôi thường nghe người lớn nói rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2000.
“Con bọ Y2K” hồi năm 2000 đã khiến cho nhiều người lo sốt vó. Vậy mà cuối cùng
ngày tận thế có đến đâu!
Ở tuổi ngoài 80, dì tôi vẫn còn tỏ ra “ngang tầm thời đại”.
Chỉ vào màn ảnh truyền hình treo trên tường, dì cho biết chuyện gì xảy ra trên
thế giới, dì cũng đều biết cả. Không biết khi theo dõi thời cuộc, dì tôi có biết
chuyện hôm 14 tháng Năm vừa qua, Tổng thống Trump đã cho dời tòa Đại sứ Mỹ từ
Tel Aviv về Jerusalem không. Với quyết định này, dù cho cả thế giới có chống đối
cỡ nào, tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ vẫn ngang nhiên nhìn nhận cổ thành này là
thủ đô của Israel. Nếu biết chuyện chắc dì tôi sẽ rất tâm đắc, bởi vì việc dời
tòa đại sứ Mỹ về Jerusalem và chính thức nhìn nhận cổ thành này như thủ đô của
Israel là một ứng nghiệm của một lời tiên tri trong Kinh Thánh của Do Thái và
Kitô Giáo theo đó, khi người Do Thái tản mác khắp nơi trở về Jerusalem thì ngày
đó chính là ngày “thế tận” (Armageddon),
ngày Chúa trở lại, ngày “con cái Chúa” được cứu thoát và dân “ngoại đạo” sẽ bị
trừng phạt.
Tôi không tin rằng Tổng thống Trump “đạo đức” đến độ quyết
định cho dời tòa Đại sứ Mỹ về Jerusalem để làm cho ngày “thế tận” mau xảy đến
và “con cái Chúa” chóng được giải thoát. Với Tổng thống Trump, dời tòa Đại sứ Mỹ
về Jerusalem là chỉ để thực thi một lời
hứa trong chiến dịch bầu cử mà ông đã cam kết với các “nhóm lợi ích” ủng hộ
Israel và nhứt là những thành phần cơ bản dồn phiếu cho ông là các tín hữu Tin
Lành bảo thủ. Theo các cuộc thăm dò, có đến 80 phần trăm các tín hữu Tin Lành bảo
thủ đã dồn phiếu cho ứng cử viên Trump và hiện nay vẫn tiếp tục “sống chết” cho
ông. Họ tin rằng ông là vị cứu tinh được Chúa gởi đến. Ông là khí cụ được Chúa
sử dụng để thực hiện lời hứa của Ngài về ngày “thế tận”.
Cá nhân Tổng thống Trump có thể không phải là một tín hữu
Tin Lành mẫu mực. Ông ít khi đến nhà thờ. Ông có 2 lần ly dị và 3 lần cưới vợ.
Ông dính vào nhiều vụ bê bối tình dục. Ông mở nhiều sòng bạc. Ông lại khoe
khoang và nhứt là nói dối như cuội. Ông cũng từng tuyên bố rằng ông chẳng bao
giờ xin Chúa tha thứ cho mình. Nhưng các tín hữu Tin lành bảo thủ không màng đến
tư cách của ông. Đối với họ chỉ có một điều quan trọng: ông là người được Thiên
Chúa “tuyển chọn” để thực hiện kế hoạch của Ngài. Họ lý luận rằng trước bầu cử ai
cũng nghĩ ứng cử viên Trump sẽ không bao giờ có thể đắc cử, nhưng ông đã chiến
thắng một cách vẻ vang. Điều đó chứng tỏ rằng chẳng có Nga hay thế lực ngoại
bang nào can thiệp vào cuộc bầu cử cả. Theo họ, Thiên Chúa đã làm phép lạ. Thiên
Chúa đã tuyển chọn ông. Cách đây 2500
năm, người Do Thái đã từng bị đày sang Babylone. Theo Kinh Thánh, chính vua Ba
Tư là Cyrus đã ra lệnh chấm dứt cuộc lưu đày, đưa họ trở về Palestine và truyền
lệnh cho tái thiết Đền thờ Jerusalem. Kinh Thánh xem vua Cyrus như một người được
Thiên Chúa tuyển chọn để giải thoát người Do Thái khỏi cảnh lưu đày và đưa họ
trở về quê cha đất tổ. Không riêng người Do Thái mà các tín hữu Tin Lành bảo thủ
ngày nay cũng xem Tổng thống Trump như một vua Cyrus của thời đại được Thiên
Chúa tuyển chọn để đưa dân Do Thái trở về Palestine. Tại Trung tâm Giáo dục
“The Mikdash Educational Center” ở Israel, người ta thấy có một bức phù điêu
trên đó chân dung của Tổng thống Trump và vua Cyrus chập vào nhau như bóng với
hình. Chính Thủ tướng Israel, ông Benjamin Netanyahu cũng đã so sánh Tổng thống
Trump với vua Cyrus và nói rằng với quyết định dời tòa Đại sứ Mỹ về Jerusalem, Tổng
thống Trump “sẽ được dân tộc chúng tôi (Do Thái) muôn đời tưởng nhớ”.
Có lẽ Tổng thống Trump không đơn phương quyết định dời
tòa Đại sứ Mỹ về Jerusalem. Xung quanh ông toàn là những người được tác động bởi một niềm tin vững chắc vào
ngày “thế tận” và ngày “thế tận” chỉ có thể xảy ra bằng lò lửa chiến tranh tại
Trung Đông. Với những người này, chiến tranh tại Trung Đông có bùng nổ thì “thế
tận” mới đến. Một trong những người ấy là Phó tổng thống Mike Pence. Không cần
phải úp mở, ông là người đã từng tuyên bố thẳng thừng rằng chiến tranh tại
Trung Đông là do “thánh ý” của Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa muốn vùng đất
Palestine phải được trao trả lại cho dân tộc Do Thái và ngày “thế tận” (Armageddon)
là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Theo ông, dời tòa Đại sứ Mỹ về
Jerusalem và nhìn nhận Jerusalem là thủ đô của người Do Thái chính là góp phần
thực hiện kế họach của Thiên Chúa.
Nhân vật thứ hai cũng được tác động bởi cùng một niềm tin
như Phó tổng thống Pence không ai khác hơn là ông Steve Bannon, người đã từng
là cố vấn thân cận và đáng tin tưởng nhứt của Tổng thống Trump. Ông này đã công
khai tuyên bố rằng ông là thành viên của một nhóm tin lành bảo thủ tự xưng là
“Phong trào Sion Kitô”, tức những người tin tưởng rằng ủng hộ Israel là thực
thi kế hoạch của Thiên Chúa.
Nói chung tất cả các tín hữu Tin lành bảo thủ đều đặt niềm
tin của họ vào lời hứa của Thiên Chúa với Tổ phụ Abraham của người Do Thái: “Ta
chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi và ai nguyền rủa ngươi, ta sẽ nguyền
rủa nó; và tất cả mọi dân tộc trên mặt đất đều sẽ được chúc phúc xuyên qua
ngươi” (sách Sáng Thế Ký 12,3). Hiểu một cách đơn giản, lời hứa này có nghĩa
là: “ngươi sẽ không làm điều gì xấu xa trước mặt Thiên Chúa nếu ngươi ủng hộ
Israel”. Nói cách khác, đứng về phía Israel là đứng về phía Thiên Chúa. Suy rộng
ra, Tổng thống Trump là người đứng về phía Israel, vậy Tổng thống Trump đứng về
phía Thiên Chúa. Và vì là người luôn đứng về phía Thiên Chúa cho nên Tổng thống
Trump được Thiên Chúa trao cho quyền muốn làm bất cứ điều gì ông muốn.
Một trong những nhà lãnh đạo tinh thần được Tổng thống
Trump tin tưởng nhứt là Mục sư Robert Jeffress, người đang cai quản một đại
thánh đường tại Dallas, Tiểu bang Texas. Trong một cuốn sách được ấn hành hồi
năm 2014, vị mục sư này viết rằng Tổng thống Barack Obama là người dọn đường do
“Quỷ vương” ra đời. Là người đã tích cực vận động cho ứng cử viên Trump trong
cuộc bầu cử hồi năm 2016, Mục sư Jeffress
đã được Tổng thống Trump mời đến hướng dẫn một buổi cầu nguyện riêng trong
gia đình ông vào buổi sáng ngày 20 tháng Giêng năm 2017, tức ngày ông tuyên thệ
nhậm chức tổng thống. Trong rất nhiều bài giảng, vị mục sư này luôn to tiếng kết
án tất cả mọi tôn giáo khác. Với ông, tất cả mọi tôn giáo khác làm cho con người
xa lánh Thiên Chúa chân thật và dẫn đưa con người xuống hỏa ngục. Riêng Công
giáo, ông khẳng định rằng đây là một Giáo hội do quỷ Satan lãnh đạo.
Phải là người đóng một vai trò quan trọng trong các quyết
định sinh tử của Tổng thống Trump cho nên Mục sư Jeffress mới được mời đến cầu nguyện trong buổi lễ
khai trương tòa Đại sứ Mỹ tại Jerusalem. Trong lời cầu nguyện, ông cảm tạ Thiên
Chúa vì đã ban tặng cho Israel, Hoa Kỳ và thế giới một món quà cao quý là Tổng
thống Trump, người luôn đứng về phía Thiên Chúa bởi vì đứng về phía Israel.
Dì tôi đã có lý để cầu nguyện mỗi ngày vì nghĩ đến ngày
“tận thế”. Ngay chính ngày Tổng thống Trump đứng về phía Thiên Chúa và Israel để
dời tòa đại sứ Mỹ về Jerusalem, bạo động đã bùng nổ tại Palestine, nhiều người
Palestine đã chết dưới bàn tay thô bạo của quân đội Israel. Có phải vì muốn cho
người Do Thái được trở về Jerusalem mà Thiên Chúa đã phải mượn tay của Tổng thống
Trump để gây ra đau thương tang tóc cho một số người và tạo ra căng thẳng và bạo
động tại Trung Đông không?
Mỗi khi nghĩ đến “thánh ý” của Thiên Chúa hay kiểu nói “đứng
về phía Thiên Chúa”, tôi không thể không nghĩ đến câu nói nổi tiếng của Tổng thống
Abraham Lincoln (1809-1865) trong thời nội chiến tại Hoa Kỳ. Vị tổng thống này
nói: “Điều tôi quan tâm không phải là Thiên Chúa có đứng về phía chúng ta không.
Mối quan tâm lớn nhứt của tôi là tôi phải đứng về phía Thiên Chúa, bởi vì Thiên
Chúa luôn luôn đúng”. Dĩ nhiên, Thiên Chúa luôn luôn đúng. Nhưng Thiên Chúa
nào? Thiên Chúa của ai? Lịch sử thế giới đã chẳng cho thấy có quá nhiều “Thiên Chúa” đó sao?
“Thiên Chúa” của người Do Thái đã tuyển chọn họ làm dân
riêng và ra lệnh cho họ tiêu diệt mọi dân tộc khác. Khi giải phóng họ khỏi kiếp
nô lệ bên Ai Cập, Thiên Chúa này đã ra lệnh cho họ giết tất cả những đứa con trai đầu lòng của người
Ai Cập. Như đã hứa với Tổ phụ Abraham của họ, Thiên Chúa này “nguyền rủa tất cả
những ai nguyền rủa họ”.
Vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, khi Kitô Giáo trở thành
quốc giáo trong Đế quốc La Mã, nhân danh Thiên Chúa, người ta cũng đã bách hại
và tiêu diệt những ai không tin Thiên Chúa của mình. Cũng nhân danh Thiên Chúa ấy,
người ta mở các cuộc thập tự viễn chinh để chống lại người Hồi giáo. Cũng nhân
danh Thiên Chúa ấy, các hệ phái của Kitô Giáo tàn sát lẫn nhau và cũng nhân
danh Thiên Chúa ấy, người ta đi khắp nơi để chiếm đất đai của những dân tộc
khác và xóa sạch những truyền thống văn hóa nghìn đời của họ.
Ngày nay, cũng nhân danh Thiên Chúa của mình, các tổ chức
khủng bố Hồi giáo tha hồ muốn giết ai thì giết. Tại nhiều nước Hồi giáo, người
ta cũng nhân danh Thiên Chúa để cấm đoán, loại trừ và bách hại tất cả những ai
không tin Thiên Chúa của mình.
Ngay từ trang đầu tiên, Kinh Thánh viết rằng “Thiên Chúa
đã tạo thành con người”. Nhưng lịch sử nhân loại xem ra đã đảo lộn chân lý ấy
thành “con người đã tạo thành Thiên Chúa” và đã o ép để bắt Thiên Chúa đứng về
phía mình hơn là “đứng về phía Thiên Chúa” như Tổng thống Lincoln đã cam kết.
Có lẽ 2 di sản đáng ghi nhớ nhứt trong sự nghiệp chính trị
của Tổng thống Lincoln chính là tranh đấu để giải phóng người nô lệ Phi Châu và
kiến tạo sự hòa giải sau cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ. Ông đã chứng tỏ mình muốn
“đứng về phía Thiên Chúa” bằng hai nỗ lực cụ thể ấy.
Có thể tôi chối bỏ những “kiểu mẫu” Thiên Chúa mà người
ta nặn ra, nhưng tôi tin rằng chính lúc tôi đứng về phía con người, nhứt là những
con người không đủ khả năng để bảo vệ cho chính mình...đó là lúc tôi đứng về
phía Thiên Chúa, một Thiên Chúa, như Chúa Giêsu dạy, là “Đấng cho mặt trời mọc
lên soi sáng cho người xấu cũng như kẻ tốt và cho mưa xuống trên người công
chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Có thể tôi không đến nhà thờ hay một nơi
thờ phượng nào, nhưng khi tôi vẫn còn thấy mình có thể mềm lòng khi nhìn thấy
người khác bị đối xử bất công, đói khổ, có thể rơi lệ khi thấy trẻ con mình mẩy
đầy thương tích vẫn phải cố chạy thoát thân trong bom đạn, hay vẫn còn có thể
phẫn nộ và đau khổ khi thấy mình không làm được gì cho những người bị đẩy ra
bên lề...lương tâm tôi mách bảo tôi rằng tôi đang đứng về phía Thiên Chúa.
Tôi tin như vậy! Bởi vì qua họ, tôi thấy mình nhìn thấy
gương mặt sống động của Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét