Chu Thập
01/06/18
Tôi không thuộc phe bảo hoàng. Nhưng cũng như nhiều “thần
dân” Úc, tôi đã háo hức chờ đợi và say mê theo dõi đám cưới của hoàng tử Harry
và cô Meghan Markle.
Đám cưới vương giả nào cũng “hoành tráng”. Nghi thức nào
cũng trang trọng. Khách mời nào cũng đều là những nhân vật nổi tiếng. Nhưng tôi
lại thích những chi tiết nhỏ ít được chú ý đến hơn. Chẳng hạn như sự hiện diện
của một người thanh niên Nam Phi được chính hoàng tử Harry mời đến tham dự lễ
cưới của mình.
Năm 2004, Harry đã đến Nam Phi để làm việc thiện nguyện
trong một cô nhi viện để gây ý thức về dịch bệnh Sida, tình trạng nghèo đói và
nạn hạn hán mà Thành phố Lesotho đang phải đối diện. Chính tại đây mà Harry đã
gặp cậu bé 4 tuổi tên là Mutsu. Họ đã trở thành đôi bạn luôn có mặt bên nhau
trong những hoạt động từ thiện của Harry.
14 năm sau, nay đã là một thanh niên 18 tuổi, Mutsu đã được
vinh dự có mặt trong ngôi vườn bên cạnh nguyện đường St George để chào đón
hoàng tử Harry và tân nương.
Vào giữa lúc trào lưu chống di dân và kỳ thị chủng tộc tại
Anh Quốc và một số nước Âu Châu đang lớn mạnh, tôi đoán chừng hoàng tử Harry muốn
gởi đi một thông điệp khi mời người thanh niên Nam Phi tham dự lễ cưới của
mình. Thông điệp của hoàng tử Harry lại càng rõ nét hơn qua chính con người của
cô dâu. Hậu duệ của người nô lệ da đen tại Hoa Kỳ không những ngồi đồng bàn với
con cháu của các chủ nhân da trắng, mà còn trở thành công nương của Hoàng gia
Anh.
Một người da đen khác mà tôi cho là “cái đinh” của đám cưới
chính là bà Doria Ragland, mẹ của cô dâu. Bà là thân nhân duy nhứt của cô dâu
có mặt trong đám cưới. Sự sang trọng và quý phái của hoàng gia Anh dường như đã lu mờ trước làn da đen nổi bật của
bà. Nhưng có lẽ cái tâm của người phụ nữ da đen 61 tuổi này mới là điều đáng được
chú ý hơn. Cô dâu Meghan vẫn thường được mẹ gọi là “Flower”. Nụ cười khả ái và
nhân ái của cô chính là một “đóa hoa” xuất phát từ tấm lòng của người mẹ. Viết về mẹ mình,
Meghan kể lại rằng bà thường “mua gà tây gởi đến các trung tâm dành cho người
vô gia cư vào những dịp lễ Tạ ơn, mang thức ăn đến cho các bệnh nhân trong các
nhà thương dành cho người nghèo, mở ví để san sẻ với những người túng thiếu và
âm thầm thực thi những cử chỉ tử tế như trao một cái hôn, một nụ cười hay một
cái vỗ vai để an ủi và nâng đỡ tinh thần những người cần được giúp đỡ”.
Khi ông bà Markle chia tay, Meghan chỉ mới 6 tuổi. Cô đã
hoàn toàn sống với mẹ từ ngày ấy. Lòng
nhân ái của bà Ragland đã ảnh hưởng rất nhiều đến những hoạt động từ thiện của
Meghan, nhờ đó cô đã chiếm được trái tim của hoàng tử Harry. Cô chia sẻ về ảnh
hưởng của người mẹ: “Càng lớn tôi càng nhìn thấy điều đó. Chính điều đó biến
tôi thành một thiếu nữ có ý thức về (những vấn đề) xã hội, để làm những gì mình
có thể làm hay ít nhứt, dám lên tiếng khi thấy có điều sai trái”.
Là “cái đinh” trong hôn lễ, nhưng bà Ragland hoàn toàn giữ
thinh lặng. Nhưng tôi cho rằng tất cả những gì bà Ragland muốn nhắn gởi, bà đã
nói qua Giám mục Michael Curry, một người da đen hiện đang lãnh đạo Giáo hội
Anh Giáo Episcopal tại Hoa Kỳ. Được mời thuyết giảng trong lễ cưới, Giám mục
Curry đã mở đầu bằng một câu nói của cố Mục sư Martin Luther King: “Chúng ta cần
phải khám phá ra sức mạnh của tình yêu. Đó là sức mạnh cứu rỗi của tình yêu. Và
khi chúng ta yêu thương, chúng ta sẽ làm cho thế giới này thành một thế giới mới.
Tình yêu là con đường duy nhứt”. Không những nhắc đến tên của vị mục sư da đen
nổi tiếng đã bị sát hại vì tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen tại
Hoa Kỳ, Giám mục Curry cũng gợi lại cả một lịch sử đen tối của người nô lệ Phi
Châu.
Với sự hiện diện của bà Ragland trong lễ cưới, dường như
nguyện đường St George đã tràn ngập màu đen của cả một lục địa đã từng bị cướp
bóc, chiếm đoạt và bắt làm nô lệ. Ca khúc “Stand by me” (Hãy đứng bên tôi) được
một ca đoàn gồm toàn người da đen cất hát trong lễ cưới có lẽ cũng muốn gợi lại
những trang sử đen tối ấy. Cuối cùng, ở cuối buổi lễ, khi người nhạc sĩ đại hồ
cầm da đen 19 tuổi tên là Sheku
Kanneh-Mason trình diễn, tôi nghe như tiếng kêu gào của người nô lệ da đen
trong quá khứ và niềm đau của hậu duệ của họ, những người cho tới nay vẫn tiếp
tục bị kỳ thị và đẩy ra bên lề xã hội.
Như Ký giả Afua Hirsch đã viết về đám cưới của Harry và
Meghan trong Tạp chí Time số ra ngày 4 tháng Sáu này, “đối với một số người Anh
da đen, đây là một điều đáng hãnh diện vì có một người phụ nữ da màu gia nhập
vào hoàng gia. Nhưng đối với một số người khác, cuộc hôn phối này cũng gợi lên
cả một thành kiến lâu đời về giai cấp”.
Thật ra, như Ký giả Hirsch đã ghi nhận, cũng như rất nhiều
nước khác trên thế giới, Anh quốc cũng đã từng là đất nước của người di dân.
Nhiều người Anh quên rằng những nhóm người da trắng được xem là dân “bản địa”
chính cống như người Anglo hay người Saxon, cũng đã từng là người di dân từ Đức
hay các nước Bắc Âu. Trước họ, ngay từ thời Anh Quốc bị Đế quốc La Mã cai trị,
người da đen cũng đã có mặt trên đất nước này.
Nói chung, con người ta dễ quên lịch sử và gốc gác của họ.
Chính vì quên lãng lịch sử và gốc gác của mình mà họ dễ có thái độ kỳ thị,
khinh miệt và loại trừ người di dân. Trong một bài viết được đăng trên Việt
Báo, Giáo sư Nguyễn Thanh Việt, tác giả của quyển tiểu thuyết “The Sympathizer”
(cảm tình viên) được trao giải Pulitzer năm 2016, đã phân tách thái độ ấy khi
nhận định về một câu nói của ông John Kelly, đương kim Chánh Văn Phòng Tòa Bạch
Ốc. Khi mô tả những người di dân bất hợp pháp đến từ Châu Mỹ La Tinh, ông Kelly
nói rằng “họ hầu hết là dân quê mùa. Họ đến từ những xứ mà bình thường trình độ
học vấn chỉ đến lớp bốn, năm hoặc sáu. Họ không nói được tiếng Anh. Họ khó mà hội
nhập được. Họ đâu có kỹ năng chuyên môn nào” (x. Nguyễn Thanh Việt, Tiền bối của
John Kelly cũng không thể hội nhập, Việt Báo on line 23/5/2018).
Ông Kelly nhìn nhận rằng người di dân có lý do để tìm đến
Hoa Kỳ. Ông thông cảm với họ. Nhưng theo ông “luật là luật”. Dù sao, giọng điệu
của ông Kelly nghe chưa đến nỗi hằn học và miệt thị như Tổng thống Donald
Trump. Ông Trump đã từng gọi các nước Phi Châu là “những nước hố xí” (Shithole
countries) và mới cách đây hai tuần, như Giáo sư Việt ghi nhận, ông đã gọi một
số di dân bất hợp pháp là “đồ súc vật”.
Không riêng những người kỳ thị chủng tộc và chống di dân
ra mặt, theo Giáo sư Việt, “ngay cả một số bạn bè Việt-Mỹ của tôi, những người
mà, dù đã đến đất nước này dưới dạng di tản tỵ nạn chiến tranh, cũng cho rằng
Hoa Kỳ không nên nhận thêm bất cứ người tỵ nạn nào nữa, nhất là những người từ
các nơi như Syria. Một vài người, như ông thị trưởng Mỹ gốc Việt của Thành phố
Westminser, California, nơi đông đảo dân Việt hải ngoại cư ngụ nhất, còn kêu
lên rằng Hoa Kỳ không nên nhận thêm bất cứ người di dân trái phép nào nữa, vì
trong bọn họ có cả “bọn tội phạm”. Chúng ta là những người tỵ nạn lương thiện,
họ lập luận như vậy. Còn dân mới đến là những người tỵ nạn xấu”.
Thật ra, như Giáo sư Việt ghi nhận, “trong những thập
niên 1970 và 1980, tôi có thể chứng nhận rằng đã có rất nhiều người tỵ nạn xấu
trong chúng ta. Gian lận phúc lợi. Lừa gạt bảo hiểm. Hối lộ. Bạo lực băng đảng,
với biệt tài riêng đột nhập tư gia”.
Cộng đồng người Việt hải ngoại nhìn chung đã hội nhập một
cách thành công vào các xã hội Tây Phương. Nhưng ở khởi đầu, khi mới chân ướt
chân ráo đặt chân đến một đất nước xa lạ, hầu hết đều là những người có trình độ
thấp, không nói được ngôn ngữ của đất nước đón nhận mình. Giáo sư Việt kể lại rằng
“mẹ ông đã vươn lên từ cảnh quê mùa nghèo khổ để trở thành một thương gia thành
công qua những quyết định rất liều lĩnh, trong đó quyết định đầu tiên là rời miền
Bắc di cư vào Nam năm 1954”, rồi di tản qua Mỹ năm 1975. Bà không thạo tiếng
Anh, nhưng trong công việc bà đã giỏi đủ để đóng góp tiền thuế nhiều hơn nhiều
người Mỹ. Giáo sư Việt còn kể lại rằng “nhiều người Mỹ coi bà chỉ là một kẻ ngoại
cuộc, kể cả cái người đã treo bảng trên cửa sổ một tiệm gần tiệm thực phẩm của
bố mẹ tôi tại San José: “Thêm một người
Mỹ mất kế sinh nhai vì dân Việt”.
Giáo sư Việt là một người đã thành công trong xã hội Mỹ.
Nhưng ông vẫn tự nhận mình là một trong những người Mỹ gốc Việt đã không hề
quên mình, biết đồng hành với những người
di dân và tỵ nạn, với người nghèo khổ và bị bỏ rơi, những người với hoàn cảnh rất
giống mẹ ông.
Mới đây, một người di dân bất hợp pháp gốc Mali, Phi Châu
tên là Mamoudou Gassama, đã được tổng thống
Pháp vinh danh như một anh hùng và được cấp quyền công dân sau khi anh đã leo
lên nhiều tầng lầu để cứu một đứa bé 2 tuổi đang đánh đu trên một lan can. Thước
phim quay lại cảnh người thanh niên đã liều mạng để cứu sống đứa bé đã được
nhanh chóng truyền đi khắp thế giới. Anh được tặng cho danh hiệu “Spider-Man” (người
nhện). Người di dân bất hợp pháp này xứng đáng để được tuyên dương như một anh
hùng và được trao quyền công dân. Không
phải người di dân bất hợp pháp nào tại Pháp, Hoa Kỳ hay bất cứ quốc gia Tây
Phương nào cũng đều là “anh hùng” cả. Phần
lớn, như Chánh Văn Phòng Tòa Bạch Ốc đã nói, có thể chỉ có trình độ tiểu học.
Nhưng cũng như bà mẹ của Giáo sư Việt và vô số ông bà tổ tiên của người di dân
và tỵ nạn, trong đó có tiền bối của ông Kelly và ngay cả ông nội của Tổng thống
Trump, dù ở bước đầu không thành thạo ngôn ngữ của quê hương mới, họ vẫn cố gắng
vươn lên, tạo cho mình một cuộc sống xứng với phẩm giá con người, đóng góp cho
đất nước, chuẩn bị và gầy dựng nên những thế hệ tương lai tốt đẹp.
Viết về mẹ mình và những cố gắng hội nhập của mẹ mình
trong xã hội mới, Giáo sư Việt kết luận: “Bà có cần đâu lòng thương hại hay sự
hổ thẹn của tôi. Chỉ cần lòng bác ái và sự kính trọng”.
Người di dân, tỵ nạn hay bất cứ một thành phần nào bị kỳ
thị và đẩy ra bên lề xã hội...không cần lòng thương hại hay sự hổ thẹn của tôi.
Họ “chỉ cần lòng bác ái và kính trọng”.
Đó là thông điệp mà tôi nghe được từ đám
cưới của hoàng tử Harry và cô Meghan Markle.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét