Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2018

Đường đi hỏa ngục



Chu Thập
Thứ Bảy mùng Năm tháng Năm vừa qua là ngày kỷ niệm sinh nhựt thứ 200 của Karl Marx (1818-1883), ông tổ của chủ nghĩa Cộng sản. Nhân dịp này, Thành phố Trier nằm ở miền tây nước Đức, gần Lục Xâm Bảo, nơi chào đời của ông, đã quyết định đón nhận một món quà đặc biệt của Trung Cộng. Đó là bức tượng bằng đồng cao 4.5 thước của Karl Marx do một nhà điêu khắc nổi tiếng của Trung Cộng là ông Wu Weishan thực hiện. Các viên chức của Thành phố Trier cho biết họ đã mất hai năm để thảo luận và tranh cãi với nhau về việc có nên đón nhận món quà này không. Nhiều người đã lên tiếng phản đối vì cho rằng đón nhận món quà này là đồng lõa với những vi phạm nhân quyền tại Trung Cộng.
Hôm thứ Sáu vừa qua, Chi nhánh Đức của Hội Văn Bút Quốc Tế nói rằng không nên trưng bày bức tượng bao lâu bà Lưu Hà, quả phụ của ông Lưu Hiểu Ba, người đã được trao tặng Giải Nobel Hòa Bình hồi năm 2010, vẫn còn bị quản thúc tại gia. Bà Hà đã bị giam giữ trong nhà từ năm 2010 mà không hề được mang ra xét xử vì bất cứ hành vi phạm pháp nào.
Về phần mình, thị trưởng Thành phố Trier, ông Wolfram Leibe giải thích rằng đón nhận và trưng bày bức tượng của Karl Marx là một cử chỉ tỏ tình thân thiện với Trung Cộng, đồng thời là cơ hội để mọi người lượng định lại chỗ đứng lịch sử của ông. Thật ra, bức tượng Karl Marx do Trung Cộng tặng không phải là tượng đài duy nhất về ông tổ của chủ nghĩa cộng sản này. Ngôi nhà nơi ông sinh ra đã trở thành một di tích lịch sử và tại Thủ đô Bá Linh hiện cũng có một bức tượng của ông. Đây là một trong những khu du lịch nổi tiếng của Đức với lượng du khách mỗi năm lên đến 4.5 triệu người.
Karl Marx vẫn tiếp tục là một nhân vật lịch sử gây nhiểu tranh cãi và chia rẽ. Những người bênh vực ông thì cho rằng các chế độ cộng sản đã hiểu và áp dụng sai các lý thuyết của ông. Còn những người chống ông thì lại áp dụng nguyên tắc “trông quả biết cây”. Chính tư tưởng của ông là nền tảng để xây dựng chủ nghĩa Cộng sản là thứ chủ nghĩa đã và đang tiếp tục gây ra không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho nhân loại.
Dĩ nhiên, những người cộng sản vẫn tiếp tục biện minh cho di sản của Karl Marx. Hôm thứ Sáu vừa qua, Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Cộng đã ca tụng ông như “nhà tư tưởng vĩ đại nhứt của thời hiện đại”. Chủ tịch Tập Cận Bình kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy trở về với cội nguồn của Chủ nghĩa Mác xít. Ông khẳng định rằng đảng cộng sản vẫn mãi mãi là “người bảo tồn và thực hiện” chủ nghĩa Mác xít. Ở Việt Nam, những người cộng sản cũng chỉ biết lập lại có thế, mặc dù có thể rất nhiều người, ngay cả đương kim Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là người lấy tiến sĩ về chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô, cũng chẳng biết được mặt mũi của “xã hội xã hội chủ nghĩa” được Karl Marx vẽ ra như thế nào.
Tôi không phải là đồ đệ của ông Karl Marx và nhứt là tôi chỉ có một sự hiểu biết rất mơ hồ về tư tưởng của ông. Thời còn đi học, giữa lúc đang diễn ra cuộc chiến ý thức hệ khốc liệt trên quê hương, tôi đã cố gắng học hỏi về chủ nghĩa Mác xít. Nhưng với trình độ quá non kém, tôi chẳng hiểu biết được bao nhiêu. Có nghe nói đến hai tác phẩm chính của Karl Marx là “Tư bản luận” (Das Kapital) và “Tuyên ngôn của chủ nghĩa cộng sản” (Manifest der Kommunistischen Parte), nhưng tôi không có khả năng và cũng chẳng có đủ can đảm để đọc được một dòng nào trong hai tác phẩm này. Nhưng qua sự dẫn giải của các vị giáo sư của tôi, tôi hiểu một cách khái quát rằng chủ nghĩa Tư bản vừa mới phát sinh tại Âu Châu cùng với cuộc cách mạng kỹ nghệ là đối tượng phê bình của Karl Marx. Ông cho rằng chính chủ nghĩa Tư bản là nguyên nhân đẻ ra bất công xã hội, tạo ra giai cấp trong xã hội. Vậy thì để xóa bỏ chủ nghĩa Tư bản, cần phải san bằng xã hội, trả lại công lý cho giai cấp vô sản đang bị bóc lột. Thiên đàng trên trần gian mà Karl Marx hằng mơ tưởng là một xã hội không còn giai cấp, không còn cảnh người bóc lột người, một xã hội trong đó mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng theo nhu cầu. Một xã hội như thế thì ai mà chẳng mơ ước. Kitô Giáo tin tưởng rằng loài người có thể xây dựng được trên trần gian này một xã hội như thế. Nhưng trong khi Kitô Giáo xây dựng một xã hội như thế trên tình yêu thương thì Karl Marx chủ trương chỉ có thể tiến tới một xã hội như thế bằng bạo lực và hận thù.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Karl Marx có viết: “Tôn giáo là hạnh phúc ảo tưởng của con người. Dẹp bỏ tôn giáo là một đòi hỏi để cho con người được hạnh phúc thật sự”. Khi tuyên bố rằng tôn giáo “là tiếng thở dài của những người bị áp bức, là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”, Karl Marx muốn lập ra một tôn giáo mới và tôn giáo mới ấy trong cốt lõi chính là tôn giáo của hận thù.
Có thể sự hiểu biết của tôi về chủ nghĩa Mác xít chỉ là một ý niệm khái quát. Nhưng sau năm 1975, khi nhìn tận mặt mấy ông cộng sản, chứng kiến tận mắt hành động của họ và “sờ” được chủ nghĩa Cộng sản bằng chính đôi tay của mình, tôi mới ngộ ra điều mà các giáo sư của tôi đã dẫn giải về chủ nghĩa Mác xít. Karl Marx có thể đã để lại cả một kho tàng tư tưởng trừu tượng cao siêu và khó hiểu, nhưng di sản cụ thể nhứt của ông mà ngay cả một người thất học cũng có thể nhìn thấy hay cảm nhận được chính là sự thù hận. Đồ tể Hitler đã xây dựng Đức quốc xã trên thù hận. Nhưng sự thù hận của Đức quốc xã chỉ nhắm vào người Do Thái. Còn sự thù hận mà Karl Marx đã rao giảng đã không loại trừ một người nào. Không cần phải đến Tây Bá Lợi Á để nhìn thấy sự hận thù trong các Quần đảo Gulag. Không cần phải đọc tài liệu để cảm nhận được thế nào là thù hận trong cuộc cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông. Cũng chẳng cần phải quay ngược kim đồng hồ để trở lại Cam Bốt dưới thời Pol Pot để nhìn thấy sự thù hận của người cộng sản...Nhiều người Việt Nam đã là nạn nhân của thù hận trong cuộc cải cách ruộng đất do Hồ Chí Minh chủ xướng ngoài Bắc từ năm 1953 đến năm 1956. Thực chất của cuộc cải cách ruộng đất chính là lò lửa của thù hận được trút xuống trên những người vô tội. Sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng có thể tự hào tuyên bố trước thế giới rằng họ đã thực sự nhìn thấy được linh hồn của chủ nghĩa Mác xít là sự thù hận.
Riêng tôi không thể nào quên được  một tấm bia ở dưới chân Tháp Bà, Cầu Bóng, Nha Trang. Chuyện xảy ra vào những ngày đầu tháng Tư năm 1975, sau khi thành phố Nha Trang bỏ ngỏ. Trên đường rút quân về phía nam, để chận đường tiến của Việt Cộng, không lực Việt Nam Cộng Hòa đã thả bom xuống Cầu Bóng. Một trái bom lạc mục tiêu đã rơi xuống dưới chân Tháp Bà khiến cho một số người bị thiệt mạng. Liền sau đó, một tấm bia đã được dựng lên, không phải để tưởng niệm các nạn nhân xấu số, mà để kêu gọi “căm thù” đối với “Mỹ Ngụy”. Tôi không nhớ rõ hàng chữ nhỏ phía dưới tấm bia. Nhưng ba chữ “Bia Căm Thù” thì không bao giờ phai nhạt trong ký ức của tôi, kể từ khi thành phố Nha Trang lọt vào tay cộng sản. Lúc còn ở trong nước, cứ mỗi lần đạp xe đi ngang qua “Bia Căm Thù” ấy, tôi thấy nhói lên trong tim. Đau buồn vì mất nước đã đành, nhưng xót xa nhiều hơn khi thấy cả nước chìm ngập trong sự thù hận.
Có lẽ trong các chế độ cộng sản, không ai tin tưởng ở sức mạnh của sự thù hận cho bằng chủ tịch “vĩ đại và vô vàn kính yêu” của Bắc Hàn là ông Kim Il-sung. Ông đã từng tuyên bố: “Điều quan trọng nhất trong việc chuẩn bị chiến tranh của chúng tôi là dạy cho mọi người thù ghét đế quốc Mỹ. Nếu không thì chúng tôi không thể nào đánh bại được đế quốc Mỹ là những người luôn khoe khoang về những kỹ thuật siêu vượt của họ”. Dù có chủ động ngồi vào bàn thương thuyết với Mỹ cách nào đi nữa, có lẽ người cháu nội của ông Kim Il-sung là chủ tịch Kim Jong-un sẽ không bao giờ quên được “khuôn vàng thước ngọc” ấy. Kho vũ khí nguyên tử mà ông đã xây dựng được cũng chính là lò lửa của hận thù. Đất nước có nghèo nàn đến đâu cũng được, xã hội có bệ rác cỡ nào cũng không quan trọng. Với dòng họ Kim, bao lâu hận thù còn đó thì bấy lâu chế độ cha truyền con nối vẫn tồn tại.
Một xã hội không có giai cấp, không còn cảnh người bóc lột người, một xã hội trong đó con người làm việc theo khả năng và hưởng theo nhu cầu...được Karl Marx “rao giảng” như một thứ tin mừng của Kitô Giáo, đã không bao giờ đến. “Bảy mươi năm lẻ ” ở Liên Xô, như ai đó ở Hà Nội đã nhìn vào tượng của Lenin để làm bài thơ tức cảnh, “mà có ra cái đếch gì”. Còn ở Trung Cộng và Việt Nam thì càng “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”, khoảng cách giữa giai cấp thống trị và người bị trị, giữa giàu và nghèo còn sâu hơn cả vực thẳm.
Người ta có thể dành cho Karl Marx vinh dự của một người có viễn kiến khi ông “lên đồng” để loan báo về một xã hội bình đẳng, huynh đệ đại đồng,  không giai cấp. Nhưng khi ông thổi hơi thù hận vào xã hội, tôi liên tưởng đến một câu nói quen thuộc của người Pháp: Con đường dẫn xuống hỏa ngục được lát đầy bằng những thiện ý” (le chemin vers l’enfer est pavé de bonnes intentions). Tôn giáo nào cũng nói đến hỏa ngục trong cuộc sống mai hậu. Nhưng cái hỏa ngục ấy như thế nào thì chẳng có ai từ bên kia thế giới về nói cho tôi biết cả. Với tôi, nơi nào sự thù hận ngự trị thì nơi đó là hỏa ngục. Hỏa ngục chẳng chờ ở cuộc sống mai hậu mà xuất hiện ngay trên cõi đời này mỗi khi con người để cho lò lửa của hận thù thiêu đốt trái tim của mình.
Thật ra, kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy thù hận đâu chỉ có trong các chế độ cộng sản. Nó “nằm vùng” ngay trong chính con người tôi. Nó có tên là đố kỵ, kỳ thị, bạo động dưới mọi hình thức và ngay cả sự dửng dưng trước nỗi khổ của người đồng loại. Ai sinh ra mà chẳng mang theo mình cái khả năng vừa biết cảm thông lại cũng vừa thích gây hấn. Còn sống là còn học làm người và còn phải chiến đấu với chính mình. Học để biết yêu thương, tha thứ, cảm thông cũng như học để biết dập tắt ngọn lửa của thù hận trong tâm hồn. Một xã hội bình đẳng, không có giai cấp không biết bao giờ mới đến, nhưng ít ra con người có thể cảm nhận được thế nào là thiên đàng trên trần gian mỗi khi ngọn lửa của thù hận được dập tắt trong tâm hồn.
Một xã hội bình đẳng và nhân ái chỉ có thể bắt đầu từ những tâm hồn biết tôn trọng sự bình đẳng và thực thi lòng nhân ái.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét