Chu Thập
18/05/18
Những ngày cuối thu năm nay, nhứt là những ngày có mưa
phùn lất phất, thường làm cho tôi nghĩ về cái chết. Đặc biệt trong những ngày vừa
qua, có những cái chết đã gợi lên trong tôi nhiều cảm xúc ngổn ngang. Sự ra đi
của cụ ông David Goodall chẳng hạn đã đánh động tôi rất nhiều. Ở tuổi 104, nhà
khoa học Úc này vẫn còn mẫn cảm và sáng suốt. Nhưng cảm thấy đã sống một cuộc sống
có ý nghĩa và sung mãn, cụ quyết định ra đi. Luật pháp Úc không nhìn nhận “nan
y tử quyền”, cụ sang Thụy Sĩ là nơi cho phép người già và những người mắc bệnh
nan y được trợ tử. Trước khi đi vào cõi chết, cụ đã họp báo để bênh vực cho “tử
quyền” của mình, đi thăm viếng một vài thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ăn bữa ăn cuối
cùng với những món khoái khẩu nhứt, rồi thanh thản ra đi. Tôi không biết cụ đi
đâu, nhưng đây quả là một chuyến đi thanh thản, nhẹ nhàng. Bên kia niềm tin tôn
giáo và luật pháp, tôi cho đây là một chuyến đi ý nghĩa, bởi vì nó gợi lên cho
tôi sự can đảm và bình thản của con người khi đứng trước điều khủng khiếp nhứt
trong cuộc sống mà ai cũng phải một lần trải qua.
Nếu sự ra đi của cụ ông Goodall gợi lên trong tôi sự can
đảm và bình thản trước cái chết thì thảm kịch vừa mới xảy ra tại Margaret
River, Tiểu bang Tây Úc, lại mang đến cho tôi một cảm xúc buồn đau khó tả. Cũng
là người tự chọn cho mình cái chết, nhưng người chồng, người cha và người ông
trong thảm kịch này lại muốn kéo theo người vợ, người con gái và 4 đứa cháu ngoại
của mình cùng ra đi với mình và ra đi bằng một cái chết thảm thương. Thảm kịch
nằm ở chỗ đó: có những người vẫn còn muốn sống nhưng lại phải ra đi!
Tôi là người ham sống và sợ chết. Tôi bắt đầu sợ chết khi
bước vào tuổi có trí khôn. Ở tuổi này, tôi
đã học biết gần như đầy đủ những điều căn bản trong “Đạo” của tôi và một trong
những điều căn bản đó chính là cuộc sống mai hậu, trong đó con người bị đày xuống
hỏa ngục “đời đời kiếp kiếp chẳng cùng” hay được lên thiên đàng để “hằng xem thấy
mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng” tùy theo công đức của mình trong cuộc
sống tại thế này. “Mặt Đức Chúa Trời sáng láng” cỡ nào thì ngay cả trí tưởng tượng
vô cùng phong phú của tuổi thơ của tôi cũng chẳng vẽ ra được. Nhưng cái hỏa ngục
“đời đời kiếp kiếp chẳng cùng” thì, với sự mô tả như đã từng mắt thấy tai nghe
của bà mẹ “đạo đức” của tôi, quả là khủng
khiếp. Tôi sợ hỏa ngục đến độ cứ có chuyện quan trọng cần thề thốt, tôi cứ lấy
hỏa ngục ra mà thề. Vì sợ xuống hỏa ngục
cho nên tôi sợ chết. Thật ra đâu chỉ có Kitô Giáo của tôi mới nói đến cuộc sống
mai hậu. Tôn giáo nào mà chẳng hứa hẹn phần thưởng và cảnh báo về sự trừng phạt
trong cuộc sống mai hậu.
Sợ bị trừng phạt hơn là trông mong phần thưởng trong cuộc sống mai hậu cho nên tôi sợ chết là phải.
Sợ quá cho nên nhiều lúc tôi đành tự trấn an mình với sự cá cược của nhà vật
lý, toán học kiêm triết gia Pháp Blaise
Pascal (1623-1662). Về sự trừng phạt và phần thưởng trong cuộc sống mai hậu,
triết gia này khuyên nên làm một cuộc đánh cá: nếu Thiên Chúa không hiện hữu và
như vậy cũng chẳng có thưởng phạt ở đời sau, thì nếu có thua cuộc, sự mất mát trong
cuộc sống tại thế của người có niềm tin tôn giáo cũng chẳng là bao. Trái lại, nếu
Thiên Chúa hiện hữu và phần thưởng và sự trừng phạt trong cuộc sống mai hậu là
vô biên, thì sự mất mát của kẻ vô thần sẽ là vô tận và khủng khiếp!
Thật ra đâu cần phải mang sự hiện hữu của Thiên Chúa ra để
cá cược. Cách đây hơn 2000 năm, để xua đuổi nỗi ám ảnh của sự chết, triết gia Hy
Lạp Epicurus đã lập luận rằng chết không phải là điều đáng quan tâm, bởi vì bao
lâu con người hiện hữu thì bấy lâu không có sự chết và nếu sự chết xảy đến thì
con người cũng chẳng còn hiện hữu nữa. Theo ông, con người chỉ là một sự kết hợp
của một mớ vật chất cho nên chẳng có linh hồn và cũng chẳng có cuộc sống mai hậu.
Đã chết rồi thì không còn cái Tôi và không còn cái Tôi thì cũng chẳng còn khoái
lạc hay đau buồn, nghĩa là cũng chẳng còn sợ hãi nữa!
Tên của nhà hiền triết này thường gắn liền với chủ nghĩa
“khoái lạc”. Thật ra, với ông, khoái lạc đích thực không hề đồng nghĩa với dục
vọng hay đam mê cuồng loạn, mà chính là vui hưởng những thú vui lành mạnh trong
cuộc sống. Để có được thứ khoái lạc ấy con người cần phải có sự thanh thản
trong tâm hồn và vượt qua mọi nỗi sợ hãi. Xét cho cùng, cũng như triết lý nhà
Phật, Epicurus kêu gọi con người chế ngự dục vọng để có được thân tâm an lạc.
Vài thế kỷ sau, một đệ tử của Epicurus là thi sĩ La Mã
Quintus Horatius (65-8 trước Công nguyên) đã tóm gọn minh triết của ông trong một
câu ngắn gọn: “Hãy bắt lấy ngày hôm nay” (carpe diem), nghĩa là hãy tận hưởng
giây phút hiện tại. Horatius giải thích: “Bởi vì cuộc sống ngắn ngủi, hãy dẹp bỏ
những niềm hy vọng xa xôi! Ngay cả khi chúng ta vừa mới mở miệng nói thì Thời
gian cũng đã trôi qua”.
Phải chăng khi biết tận hưởng giây phút hiện tại, bằng
lòng với những gì mình đang có, con người xua đuổi được hay ít ra giảm thiểu được
nỗi sợ hãi đối với cái chết?
Mới đây, một nữ nhiếp ảnh gia người Mỹ là bà Nancy Borwick có tổ chức tại Sydney một
cuộc triển lãm về một số bức ảnh mà bà đã ghi lại được về những năm tháng cuối
đời của cha mẹ bà. Năm được 28 tuổi, bà Borwick đã phải đối diện với một sự thật
khủng khiếp: cả cha lẫn mẹ của bà đều bị ung thư vào giai đoạn cuối. Chỉ trong
17 năm, mẹ bà phải bị ung thư ngực đến 3 lần, trong khi cha bà được chẩn đoán bị
ung thư tuyến tụy vào giai đoạn cuối. Điều đó có nghĩa là hầu như cha mẹ bà
không có chút hy vọng sống còn nào. Tuy nhiên, bà Borwick không thể biết được
chính xác cha mẹ mình sẽ còn sống được bao lâu. Bà liền quyết định dùng máy ảnh
để ghi lại cuộc hành trình cuối cùng của cha mẹ mình. Để được gần gũi với cha mẹ
mình hơn, nhưng cũng để hiểu hơn con người thật của hai ông bà.
Để có được những kỷ niệm đẹp về cha mẹ mình, bà Borwick
đã cho tổ chức sớm hơn dự định đám cưới của mình. Bà cho đặt máy ảnh trên một
cây cao, rồi nhờ một người bạn bấm nút tự động khi hai ông bà cầm tay bà dắt
lên trao cho chú rể.
Bà Borwick giải thích rằng thoạt tiên căn bệnh ung thư mà
cha mẹ bà đang trải qua trong giai đoạn cuối là lý do khiến bà ghi lại những
hình ảnh cuối đời của hai ông bà. Nhưng dần dà bà nhận ra rằng câu chuyện bà muốn
ghi lại qua một số hình ảnh không phải là ung thư và bệnh tật nữa, mà là sự sống
và cách sống. Bà cho biết khi hóa trị làm cho tóc của mẹ bà rụng thì cha bà
cũng tự tay cạo đi chỏm tóc còn sót lại trên đầu ông. Bà Borwick kể lại rằng mẹ
bà nhặt lấy chùm tóc đen của chồng rồi áp lên đôi chân mày của bà. Một phút
sau, con chó cũng được tặng cho một ít tóc để đeo lên mắt nó. Cả nhà đều cười ngả
nghiêng!
Nhưng cũng có những giây phút nghẹt thở mà gia đình phải
trải qua. Một trong những giây phút đầy căng thẳng đó là cú điện thoại của vị
bác sĩ chuyên khoa đang chữa trị cho hai ông bà. Ông gọi đến để báo cho hai ông bà biết kết quả của việc hóa
trị. Hai ông bà đã vào phòng vệ sinh để
nghe cú điện thoại. Bà Borwick đã đùa với 2 ông bà: “Ai lại đi nghe một cú điện
thoại quan trọng như thế trong nhà vệ sinh?” Bà Borwick cảm thấy như mình đã
nói hớ một điều gì đó. Bà nghĩ: nếu như kết quả cho thấy có dấu hiệu khả quan
cho người này, nhưng lại không mấy tốt đẹp cho người kia thì sao?
Cuối cùng, tháng Mười Hai năm 2013, cha bà là người ra đi
trước và mẹ bà trút hơi thở cuối cùng một năm sau đó.
Những hình ảnh bà Borwick ghi lại được trong những ngày
tháng cuối đời của cha mẹ bà đã mang về cho bà hạng nhì của Giải “World Press
Photography Awards” (Giải thưởng hình ảnh báo chí) năm 2016 tại Hoa Kỳ. Cùng với
những hình ảnh này, bà Borwick cũng đã viết một cuốn sách trong đó bà muốn đề
cao di sản mà cha mẹ bà đã để lại là: sống một cách sung mãn cho tới giây phút
cuối đời!
(x.http://www.abc.net.au/news/health/2018-05-12/nancy-borowick-photo-exhibition-captures-parents-cancer-stories/).
Câu chuyện của cha mẹ bà Borwick không khỏi làm tôi nhớ đến
một người bạn học đã ra đi cách đây 3 năm. Hoàn toàn suy thận và phải đi lọc
máu mỗi tuần ba lần, nhưng lần nào gặp nhau, anh cũng đều lập lại câu nói đã hầu
như trở thành “danh ngôn” của anh: “Sống cho tới chết!”. Hai tuần trước khi ra
đi, sau khi lọc máu, anh lái xe thẳng lên nhà tôi, mang theo một chiếc xuồng có
gắn máy và lên “kế hoạch” về những cuộc vui sắp tới. Anh nói năng và hành động như
thể mình là một người hoàn toàn khỏe mạnh. Anh sống như không bao giờ sẽ chết.
Đúng hơn, anh sống một cách trọn vẹn từng giây phút hiện tại. Anh quả là một
người không sợ chết!
Phải can đảm lắm người ta mới không sợ chết. Cách đây vài
năm, khi cậu con trai nhà tôi vừa mới ra trường, nộp đơn khắp nơi mà chẳng có
nơi nào nhận, cậu đành phải đi làm “cu
li” một thời gian. Có lúc chán nản, người thanh niên 24 tuổi tâm sự: không có đủ
can đảm để chết mà cũng chẳng có đủ can đảm để sống!
Khoa học gia David Goodall quả là một người can đảm: ông
đã chọn lấy cái chết và ra đi với tất cả bình thản và thanh thản. Đứng trước
cái chết, tôi là một thứ gà chết nhát. Dẫu biết chết là một phần của cuộc sống
và chẳng có ai tránh khỏi một lần phải vĩnh viễn ra đi, nhưng tôi vẫn cảm thấy
sợ. Những người không sợ chết quả là những người đáng khâm phục. Nhưng nghĩ lại
tôi thấy đáng nể phục hơn vẫn là những
người, dù phải chiến đấu với bệnh tật và bao nhiêu nghịch cảnh, vẫn có đủ can đảm
để sống và sống một cách mạnh mẽ. Trong nhiều thứ can đảm, tôi cho rằng can đảm
để sống vẫn là thứ can đảm cần được đề cao hơn cả. Và can đảm để sống chính là
hài lòng với những gì mình đang có, tìm cho ra ý nghĩa trong những công việc và
trách nhiệm được giao phó cho mình, tận hưởng từng giây phút hiện tại, xây dựng
và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh. Phải chăng đó không là
bí quyết để có được một cuộc sống thực sự hạnh phúc trên dương thế này?
Một khi có đủ can đảm để sống, sống hết mình và sống cho
đến cùng thì lúc đó, chết chóc có lẽ chỉ còn là...chuyện nhỏ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét