Chu Thập
20/04/18
Ở thời đại kỹ thuật số này, nhiều lúc tôi mang mặc cảm bị
bỏ lại đàng sau. Các phương tiện truyền thông thiết thân của con người thời đại
như Ipad, Iphone...tôi hoàn toàn mù tịt. Cách đây không lâu, do nhà tôi thuyết
phục, tôi cũng sắm cho mình một cái điện thoại cầm tay Nokia giá khoảng 20 Úc
kim. Tôi chỉ mang theo lúc đi câu cá. Nhưng lúc hăng say kéo cá, tôi vô ý để
cho chiếc điện thoại rơi xuống nước. Do thấm nước, nó hoàn toàn bị “điếc”. Từ đó, tôi nghỉ chơi với điện thoại cầm
tay luôn.
Hiện tại, tôi chỉ còn có mỗi một thiết bị có thể được xem
như “vật bất ly thân” là chiếc máy vi tính trên bàn làm việc. Tôi không thể tưởng
tượng mình có thể sống còn trong thế giới ngày nay mà không có chiếc máy vi
tính. Nhưng trình độ bình dân học vụ của tôi về các kỹ thuật số cũng chỉ vừa đủ
để tôi mở hộp thư điện tử, đọc tin tức và gõ vào phiếm như một cách tập thể dục
trí óc mà thôi. Ngoài ra, tôi dốt đến độ chẳng dám tham gia vào bất cứ một
trang mạng xã hội nào.
Cũng may, nhờ “trùm sò” trong việc chạy theo các phương
tiện truyền thông hiện đại và cũng dè xẻn trong việc giao du trên các trang mạng
xã hội, cho nên khi nổ ra vụ hồ sơ cá nhân của gần cả trăm triệu người sử dụng Facebook
bị công ty thăm dò dư luận và hoạt đầu chính trị Cambridge Analytica đánh cắp,
tôi thấy mình chả có gì để phải nao núng cả.
Ngày nay, ngoài mối đe dọa của chiến tranh nguyên tử, thế
giới còn phải đối diện với điều mà nhiều người gọi là cuộc chiến tranh trên mạng
hay tin học. Có thể đây là cuộc chiến quyết liệt và nguy hiểm nhứt của thế kỷ.
Nhưng bên cạnh cuộc chiến tranh tin học ấy, trước mắt còn có một thứ dịch bệnh
mà ngày nay không biết bao nhiêu người trên thế giới đang tự ý lao đầu vào. Dịch
bệnh đó chính là sự nghiện ngập đối với các phương tiện truyền thông hiện đại.
Vài con số thống kê làm cho tôi phải giựt mình lo sợ.
Tính trung bình, mỗi ngày con người thời đại mở điện thoại để đọc tin hay mở hộp
thư điện tử đến 47 lần. Trong lúc còn thức, cứ 19 phút một lần, chúng ta mở điện
thoại cầm tay một lần. Tổng cộng mỗi ngày chúng ta bỏ ra 5 tiếng đồng hồ để lướt
qua màn ảnh của điện thoại cầm tay. Tỷ lệ những người vừa mới thức giấc đã mở
điện thoại để xem thư từ hay tin tức lên đến 89 phần trăm.
Đây không phải là một cơn nghiện ngập hay một thứ dịch bệnh
sao? Dịch bệnh nào cũng gây nguy hại cho sức khỏe của con người. Cả tinh thần lẫn
thể lý. Nhiều người đã nhận ra điều đó.
Kết quả của một cuộc thăm dò được Hội Tâm Lý Gia Mỹ cho công bố hồi năm
ngoái cho thấy tại Hoa Kỳ có đến 65 phần trăm người Mỹ nhận thấy rằng thỉnh thoảng
không sử dụng điện thoại cầm tay có thể nâng cao sức khỏe tâm thần. Cũng trong
năm vừa qua, một cuộc nghiên cứu do trường Đại học Texas thực hiện cho thấy chỉ
cần một chiếc điện thoại “tinh khôn” để trước mặt cũng đủ để làm giảm bớt những
kỹ năng tri thức căn bản của con người. Nói tóm lại, như chuyên gia tâm lý Adam
Alter của trường Đại học New York nhận định, nỗi ám ảnh về kỹ thuật của con người
thời đại quả là “một dịch bệnh đã bùng nổ” (x.Technology, The Masters of Mind
control, tạp chí Time 23/4/2018).
Bất cứ một thứ nghiện ngập nào cũng có thể khiến cho con
người trở thành nô lệ và giam hãm con người trong chính cái tôi ích kỷ của
mình. Ngày nay, mỗi lần nghĩ đến dịch bệnh của thời đại và tình trạng tự nô lệ
hóa của con người, tôi thường liên tưởng đến hình ảnh của đám đông trên các đường
phố. Nhiều người chúi mũi vào màn ảnh của chiếc điện thoại đến độ quên hẳn sự
hiện diện của người xung quanh và ngay cả những bất trắc có thể xảy ra trong
giao thông. Nhiều người cười nói huyên thuyên và cư xử như người nói xàm giữa
đám đông.
Nhưng đặc trưng nhứt của tình trạng nô lệ mà các phương
tiện truyền thông hiện đại có thể tạo ra chính là việc tự chụp ảnh bằng điện
thoại cầm tay (selfie). “Tự sướng”: tiếng Việt trong nước hiện nay nghe có vẻ gợi
hình hơn. Tựu trung, nếu như có một thời trong các chế độ cộng sản, người dân
tôn thờ lãnh tụ, thì ngày nay dường như con người lại tôn thờ cá nhân và cá
nhân đó không ai khác hơn là cái tôi của mình. Cái tôi được đóng khung, được lộng
kính. Cái tôi được trưng bày trên các trang mạng xã hội. Người ta tưởng đó là một
cách tự đăng quang dễ dàng và không tốn kém. Kỳ thực, chúng ta càng bỏ giờ, bỏ
công sức để tự quảng cáo trên các trang mạng xã hội, thì người khai thác để trục
lợi không ai khác hơn là những người đã đẻ ra những trang mạng xã hội ấy. Họ lấy
các dữ kiện cá nhân của chúng ta để bán cho các hãng quảng cáo và các nhà hoạt
đầu chính trị. Chúng ta tưởng mình là khách hàng của Facebook hay Google. Thật
ra chúng ta chỉ là những sản phầm để họ rao bán mà thôi. Trong chế độ nô lệ,
con người bị xem như đồ vật hay sở hữu của người khác. Ngày nay, tinh vi hơn,
con người có thể tự nô lệ hóa và tình nguyện trở thành sản phẩm để được người
khác rao bán. Nói cho cùng, khi cái tôi của tôi được chính tôi tung hô và đề
cao đó là lúc tôi biến thành tín đồ của một tôn giáo mới: tôn giáo này không
tôn thờ một thần linh hay thượng đế nào khác hơn là chính tôi! Tôn giáo này
khuyến dụ tôi tin tưởng rằng tôi “hơn”
người khác, nhu cầu của tôi quan trọng hơn nhu cầu của người khác và tôi phải
được thụ hưởng tất cả những gì tôi ước muốn. Tôn giáo mới này thuyết phục tôi rằng
những người bạn trên Facebook của tôi đang ngóng trông từng ngày để được nghe
và nhìn thấy những kỳ công và thành tựu của tôi.
Dĩ nhiên, kỹ thuật được phát minh là để phục vụ con người.
Nhưng kỹ thuật của thời đại dường như không còn phục vụ con người nữa, mà đang
biến con người thành nô lệ và dẫn dắt
con người vào thứ tôn giáo mới đề cao cái tôi này.
Tại Hoa Kỳ và nhiều nước Tây Phương, ngọn lửa của tôn
giáo mới này đã bùng cháy vào khoảng thập niên 1970. Với tôn giáo mới này, người
ta xem mặc cảm tự ti và sút kém là cội rễ của mọi thứ tệ nạn tâm lý cũng như xã
hội, từ lo lắng đến trầm cảm, từ bạo hành trong gia đình đến lạm dụng tình dục
trẻ con. Đối lại với mặc cảm tự ti, tôn giáo mới này kêu gọi các tín đồ phải
luôn tỏ ra tự tin, phải xem mình là người tài giỏi và ngay cả “hơn” người khác.
Trong suốt gần 4 thập niên, các chuyên gia tâm lý Mỹ đã bỏ
công nghiên cứu về ảnh hưởng của thái độ lạc quan và sự tự tin đối với sự thành
công cũng như sức khỏe tâm thần của học sinh trung học tại Hoa Kỳ. Khẳng định cốt
lõi được đưa ra trong cuộc trắc nghiệm là: “Tôi là một người quan trọng”. Trong
thập niên 1950, chỉ có 12 phần trăm học sinh trung học đồng ý với khẳng định
này. Nhưng năm 1989, tỷ lệ này đã tăng lên đến 80 phần trăm. Cũng trong chiều
hướng này, từ giữa thập niên 1980 đến giữa thập niên 2000, sự tự tin và tự phụ
của các sinh viên Mỹ được đo lường bằng mệnh đề “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn
nếu không đạt được điều tôi đáng được”. Kết quả cho thấy tỷ lệ của lòng tự tin
và tự phụ nơi các sinh viên Mỹ tăng thêm
30 phần trăm.
Cùng một tuổi với tôi, Tổng thống Donald Trump không thuộc
thế hệ sinh viên nói trên. Nhưng cái kiểu nói của ông: “cái gì tôi cũng nhứt,
tôi thông minh nhứt, tôi học những trường danh giá nhứt, tôi thành công nhứt...tôi
là một thiên tài” có lẽ cũng nói lên một phần nào niềm tin của tôn giáo đề cao
cái tôi hiện nay. Cái gì cũng cái tôi trước hết, cái gì cũng cái tôi trên hết. Ngày
nay, chữ cái “I” trong Ipad hay Iphone dĩ nhiên gợi lên chữ Intelligence (thông
mình hay tinh khôn) mà cũng gián tiếp đề cao cái tôi. Một cuộc nghiên cứu về 15
triệu cuốn sách của Google Ngram cho thấy giữa năm 1900 và năm 1974, chữ “tôi”
chỉ được sử dụng khoảng 50 phần trăm, nhưng từ giữa năm 1975 đến năm 2007, tỷ lệ
này lại tăng lên hơn 87 phần trăm (x.https://www.psychologytoday.com/us/blog/the-power-insight/201711/maslows-hierarchy-is-the-source-our-self-obsession?)
Minh triết, đạo giáo, luân lý, tôn giáo... ở thời đại nào
cũng khuyên dạy con người khiêm tốn. Tất cả các bậc vĩ nhân đích thực trong lịch
sử nhân loại, từ cổ chí kim, đều tỏ ra là những con người khiêm tốn. Một người
thông minh tài trí và lỗi lạc nhứt trong Thế kỷ 20 như nhà bác học Albert
Einstein lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn. Năm 1922, sau khi được tin mình được
trao tặng giải thưởng Nobel về vật lý, ông đi Nhật Bản. Một nhân viên khách sạn
giúp đưa hành lý của ông lên phòng. Không có sẵn tiền túi để tặng cho người
này, ông liền lấy một mảnh giấy và bày tỏ lòng biết ơn của mình bằng câu nói: “Một cuộc sống bình lặng và khiêm tốn sẽ
mang lại nhiều hạnh phúc hơn việc đeo đuổi thành công và cái đuôi của nó là sự
mỏi mệt không ngừng”. Xem đó như một món quà vô giá, nhân viên phục vụ khách
sạn này đã cất giữ mảnh giấy ấy. Mới đây, nghĩa là gần một trăm năm sau, mảnh giấy
có câu nói trên đây đã được mang ra bán đấu giá tại Jerusalem. Lúc đầu người ta
hy vọng giá cao nhứt của mảnh giấy sẽ chỉ từ 5000 đến 8000 Mỹ kim. Nhưng không
ngờ người cháu của nhân viên khách sạn trên đây đã bất ngờ trở thành triệu phú,
bởi vì có người đã mua mảnh giấy ấy với giá gần 2 triệu Mỹ kim. Mảnh giấy ấy có
giá trị có lẽ không phải vì có thủ bút của nhà bác học cho bằng được in đậm bằng
chính tấm lòng khiêm tốn của ông. Thật có lý để gán cho ông câu nói nổi tiếng:
“Có hai thứ vô cực: một là vũ trụ, hai là sự ngu xuẩn của con người”. Nếu như thông
minh và biết nhiều như ông mà lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn thì cái ngu lớn nhứt
của con người chính là lòng tự phụ.
Người khiêm tốn đích thực, theo tôi nghĩ, không phải là
người “hạ mình” đến độ chối bỏ phẩm giá
và giá trị của mình, mà chính là “biết” giới hạn của mình, thành thật với chính
mình và hơn nữa, biết nhận ra và tôn trọng phẩm giá và giá trị của người khác,
bất luận giàu nghèo, sang hèn, thông minh hay đần độn. Một cách nào đó, sự
khiêm tốn đích thực luôn đi đôi với niềm cảm thông và sự quan tâm đến người
khác.
Trước năm 1975, nhà văn nữ Túy Hồng có viết một quyển tiểu
thuyết có tựa đề ngộ nghĩnh: “Tôi nhìn tôi trên vách”. Nhìn trên vách, dĩ nhiên
tôi chỉ thấy cái bóng của tôi. Cái bóng của tôi không phải là con người thật của
tôi. Nhưng có khi tôi lại suốt đời chạy theo cái bóng giả tạo ấy. Ngày nay, với
chiếc điện thoại tinh khôn, lúc nào tôi cũng có thể nhìn thấy tôi và chỉ thấy
có mỗi mình tôi. Không phải là một cái bóng, nhưng cái tôi trên màn ảnh của chiếc
điện thoại tinh khôn ấy cũng chỉ là một cái tôi giả tạo.
Cái tôi dễ bị đánh mất và nghịch lý lớn nhứt trong cuộc đời
là khi tôi quên mình để biết sống và quan tâm đến người khác, chính là lúc tôi
tìm gặp lại chính mình. Nụ cười chân tình của một người khi gặp lại tôi cho tôi
biết ít ra tôi đã để lại một hình ảnh tốt đẹp của tôi nơi họ. Ánh mắt của người
đối diện là ống kính chân thực nhứt để tôi nhìn thấy tôi.
Mỗi ngày mở mắt ra, tôi nhìn thấy tôi trong người khác và
tôi gặp lại tôi qua người khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét