Thứ Tư, 25 tháng 4, 2018

Kẻ chiến thắng đích thực


  
Chu Thập
23/04/14
Mỗi năm, cứ đến ngày Anzac 25 tháng 4, tuy không phải là dân Úc chính hiệu, tôi cũng hướng lòng về Gallipoli, Thổ Nhĩ Kỳ, để tưởng nhớ các chiến sĩ Úc đã bỏ mình trong thời Đệ nhứt Thế chiến và dĩ nhiên cùng với họ, tôi cũng không quên tất cả những binh sĩ Úc đã hy sinh trong  mọi cuộc chiến có sự tham gia của quân đội Úc. Lòng biết ơn không cho phép tôi loại trừ họ, bằng cách này hay cách khác, ra khỏi ký ức của mình.
Biết ơn các chiến sĩ Úc, tôi thấy cũng không thể quên được tấm lòng của một người Thổ Nhĩ Kỳ đã từng được thế giới đề cao như một trong những nhân vật vĩ đại nhứt trong lịch sử nhân loại: cố tổng thống Mustapha Kemal Ataturk (1881-1938). Đúng như tước hiệu “Ataturk” (cha già dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ) đã được trao tặng duy nhứt cho một mình ông, Mustapha Kemal, vị tổng thống đầu tiên của Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ, đã có công khai sinh ra một quốc gia dân chủ đầu tiên trong thế giới Hồi giáo và biến Thổ Nhĩ Kỳ thành một đất nước văn minh, tiến bộ. Nhưng đáng ghi nhận nhứt nơi ông, theo tôi nghĩ, chính là tấm lòng độ lượng biết dẹp bỏ hận thù để xây dựng tình thương và củng cố quan hệ thân hữu với các nước cựu thù. Việc cho phép và khuyến khích chỉnh trang các nghĩa trang của quân đội Đồng Minh, cách riêng quân đội Úc, tại Gallipoli là một cử chỉ cụ thể nói lên tấm lòng độ lượng ấy. Là một vị tướng chỉ huy thành công trong việc đẩy lui quân đội Đồng Minh trong trận chiến Gallipoli, Mustapha Kemal đã không cư xử với thái độ đắc thắng của một kẻ chiến thắng. Trái lại, ông đã xem những người nằm xuống của bên chiến bại như bạn hữu và ngay cả như những người con của đất nước mình. Năm 1934, trong bài diễn văn đọc trước một phái đoàn gồm người Úc, Tây Tân Lan và Anh đến viếng thăm trận địa Gallipoli, vị tổng thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ đã ngỏ lời về các chiến sĩ Đồng Minh đã ngã gục tại đây bằng những lời lẽ như sau:
“Những vị anh hùng này đã đổ máu và đã hy sinh mạng sống của mình. Giờ đây, các bạn đang nằm trên mảnh đất của một nước bạn. Do đó, các bạn hãy nghỉ yên.
Đối với chúng tôi, không có sự khác biệt giữa những “Johnny” (tên gọi quen thuộc của Anh, Mỹ, Úc, Gia Nã Đại và Tân Tây Lan) và những “Mehmet” (tên gọi quen thuộc của người Thổ Nhĩ Kỳ) tại những nơi họ đang nằm nghỉ bên cạnh nhau trong đất nước của chúng tôi.
Về phần mình, hỡi các bà mẹ là những người đã gởi con ra khỏi đất nước của mình, các bà hãy lau sạch nước mắt. Con trai của các bà hiện đang nằm trong lòng chúng tôi và đang nghỉ giấc bình an.
Sau khi đã bỏ mình trên mảnh đất này, họ cũng đã trở thành con cái của chúng tôi.”
(http://www.awm.gov.au/encyclopedia/ataturk.asp)
Vị cha già dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ có vĩ đại là bởi tấm lòng độ lượng và khoan nhượng của ông. Hẳn tổng thống Mustapha Kemal là người rất am hiểu lịch sử Hoa Kỳ, nhứt là trong thời kỳ lập quốc, bởi vì cử chỉ khoan nhượng của ông không thể không làm tôi nhớ lại thái độ cao thượng của một trong những nhà lập quốc vĩ đại của Hoa Kỳ là tổng thống Abraham Lincoln (1809-1865), người thường được mệnh danh là Nhà Giải phóng Vĩ đại. Vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ này đã để lại một bài diễn văn được xem là một trong những văn kiện hay nhứt bằng Anh Ngữ trong suốt lịch sử nhân loại. Bài diễn văn thường mệnh danh là “bài diễn văn Gettysburg” vì được đọc trong  buổi lễ cung hiến Nghĩa trang Chiến sĩ quốc gia tại Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania ngày 19 tháng 11 năm 1863, bốn tháng rưỡi sau khi xảy ra trận Gettysburg đẫm máu trong đó quân đội Liên bang dành được chiến thắng vẻ vang. Trong bài diễn văn lịch sử dài 272 chữ và kéo dài không quá 3 phút, tổng thống Lincoln đã đề cao gương anh dũng hy sinh của các chiến sĩ của Liên Bang cũng như của Liên Minh miền Nam. Ông mở đầu bài diễn văn bằng cách nhấn mạnh đến lý tưởng tự do và bình đẳng: “Tám mươi bảy năm trước, cha ông chúng ta đã tạo dựng trên lục địa này một quốc gia mới được thai nghén trong Tự Do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều Bình Đẳng”. Chính vì lý tưởng và niềm xác tín ấy mà hai bên, Liên Bang cũng như Liên Minh Miền Nam đã gặp nhau trên “bãi chiến trường này”. Theo tổng thống Lincoln, chính các chiến sĩ, bất luận thuộc bên nào, mới là những người đã cung hiến mảnh đất này. Kết thúc bài diễn văn, tổng thống Lincoln nói: “Thế giới sẽ không quan tâm, cũng chẳng nhớ đến những gì chúng ta đang nói ở đây, nhưng thế giới sẽ không bao giờ quên những gì họ đã làm tại đây.”
(http://www.abrahamlincolnonline.org/lincoln/speeches/gettysburg.htm)
Dĩ nhiên, thế giới đã không bao giờ quên cuộc nội chiến nhờ đó Hoa Kỳ đã trưởng thành hơn trong lý tưởng Tự Do và niềm xác tín về Bình Đẳng. Nhưng chính tổng thống Lincoln đã xóa bỏ làn ranh giữa hai chiến tuyến để đề cao gương anh dũng hy sinh của các chiến sĩ, bất luận thuộc bên nào, mà thế giới vẫn mãi mãi không bao giờ quên được “bài diễn văn Gettysburg” của ông.
“Bài diễn văn Gettysburg” của tổng thống Lincoln nay đã được đúng 150 tuổi. Bài diễn văn của tổng thống Mustapha Kemal tại nghĩa trang Gallipoli cũng đã tròn 80 tuổi. Thời xa xưa, nhiều vị nguyên thủ quốc gia đã biết nghĩ đến chuyện xóa bỏ hận thù để chỉ nghĩ đến hòa giải và tha thứ, cũng như bày tỏ một niềm tôn kính sâu xa đối với các tử sĩ, bất luận họ thuộc bên “thắng cuộc” hay bên “chiến bại”.
Có bao giờ người Việt Nam chúng ta sẽ nghe được một bài diễn văn như thế tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa không? Tôi mong điều đó biết chừng nào! Tôi chưa từng đặt chân vào Nghĩa Trang này, trước cũng như sau năm 1975. Nhưng tôi tin rằng nhà văn Giao Chỉ đã không quá phóng đại hay thêu dệt khi mô tả lại tình trạng của Nghĩa Trang này như sau: “Ngày 30/4/1975”, quê hương Việt Nam vào tay cộng sản. Sau những chiến dịch đánh tư sản mại bản, đánh tư thương, và đánh tất cả các ngành khác mà chung qui là chúng tịch thu tất cả cơ sở kinh doanh sản xuất của tư nhân và chia chác tài sản quốc gia. Đó là về vật chất, còn về con người thì hằng trăm ngàn quân nhân, viên chức, cán bộ, và một số dân thường, bị chúng đẩy vào các trại tù mà chúng gọi là trại cải tạo không thời hạn. Đó là hành hạ trả thù người còn sống, còn đối với những quân nhân tử trận nằm im trong lòng đất vẫn bị hành hạ trả thù, bằng cách ủi bằng các nghĩa trang địa phương để xây dựng nhà ở hay cơ sở trên đó. Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa cũng bị phá hoại dưới nhiều hình thức khác nhau, do một đơn vị quân đội của họ trú đóng nơi đây đập phá. Trong thập niên 1990, có tin CSVN giao cho một công ty Đài Loan xây dựng khu kỹ nghệ, nhiều thân nhân xôn xao vội vàng bốc mộ, nhưng không rõ việc gì đã xảy ra mà họ không thực hiện. Do vậy mà Nghĩa Trang vẫn còn đó dù chỉ là từng phần từng mảng trong điêu tàn hoang phế!...
Theo tác giả có bút hiệu “Người Giữ Mộ” thì năm 1983, sau khi ra tù, tác giả đến nơi an nghỉ của những chiến sĩ đã tròn nhiệm vụ với quốc gia dân tộc, để cảm nhận cảnh tiêu điều hoang phế của Nghĩa Trang! Loại cây Hắn Hương rất nhiều rất cao, che phủ Nghĩa Trang, phải len chân mới di chuyển được. Tất cả mộ bia đều bị đập phá hình, khoảng 50% mộ bia ngã xuống đất, phần còn lại thì ngả nghiêng xiêu vẹo, riêng bia của 8 vị Tướng bị đập phá hoàn toàn, nắp xi măng trên phần mộ bị nhà cầm quyền đem cấp phát cho các cơ quan của họ, trong đó có câu lạc bộ bệnh viện Từ Dũ. Thân “Con Ong”, tức là những khu đất phần mộ, trở nên loang lở do bị đào xới” (Việt Báo, Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, 19/4/2014).
30 tháng Tư hàng năm, đọc lại những dòng trên đây mà thấy xót xa. Người sống, dù thế nào đi nữa, cũng có thể bương chải để sống còn. Nhưng người chết, nhứt là những người vị quốc vong thân, nếu không được mồ yên mả đẹp thì lẽ ra, vì truyền thống “nghĩa tử nghĩa tận” của dân tộc, không đến nỗi phải bị mang ra cày xéo thêm một lần nữa. Vậy mà “Bên thắng cuộc” vẫn cứ say men chiến thắng và say cả máu người để tiếp tục dẫm đạp lên phần linh thiêng nhứt của con người là mộ phần.
Chiến tranh nào cũng có hồi kết thúc. Có kẻ chiến thắng. Có người chiến bại. 30/4/1975, như nhà báo Huy Đức trong nước đã ghi lại trong tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”, muốn hay không, xét về quân sự, rõ ràng là những người cộng sản Miền Bắc đã đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”. Nhưng cũng do chính tác giả này nhận định, “kẻ thắng cuộc” đích thực lại không phải là những người cộng sản Miền Bắc, mà chính là Miền Nam Tự Do. Chỉ cần hình ảnh của một “bộ đội” Dương Thu Hương, khi vào “tiếp thu” Sài Gòn, đã phải ngồi ôm mặt khóc ròng trước cảnh tượng của một Miền Nam Tự Do và Thịnh Vượng (vì biết mình bị Bác và Đảng lừa gạt) cũng đủ để nói lên ai mới thực sự là “Bên Thắng Cuộc”. Có anh bộ đội bà con từ Bắc vào Nam thăm thân nhân. Mặc dù sau 1975, thiếu ăn thiếu mặc, gia đình người thân cũng cố làm một bữa cơm xoàng để đãi anh. Không ngờ, chỉ thưởng thức món rau muống chẻ trộn thịt bò thôi, anh đã luôn miệng khen: “Sao mà nó ngon thế, sao mà nó “đế quốc” thế, sao mà nó “nãng mạn” thế”. Không cần phải là một Dương Thu Hương, khi khám phá ra bộ mặt thật của thịnh vượng, tự do của Miền Nam, mới bưng mặt khóc. Có lẽ tôi cũng sẽ khóc khi nhìn gương mặt ngây ngô của anh “bộ đội cụ Hồ” lần đầu tiên được thưởng thức món rau muống chẻ trộn dầu giấm ăn với thịt bò của đế quốc! Khóc vì sao thấy trên đời này có những người tội nghiệp đến thế.
Miền Nam không chỉ giải phóng Miền Bắc bằng sự giàu có, tự do và dân chủ, mà còn “chiến thắng” bằng tình người và tinh thần nhân bản vốn đã hoàn toàn bị thui chột dưới chế độ cộng sản Miền Bắc.
Tưởng niệm các chiến sĩ Úc trong Ngày Anzac, nhưng tâm hồn tôi lại hướng đến Ngày 30 tháng Tư Đen, ngày mà nhà văn Liêu Thái trong nước đã gọi là “Ngày Oan Hồn”, ngày đã đẩy không biết bao nhiêu người Việt Nam đang sống cũng như đã qua đời thành những oan hồn vất vưởng không nơi cư trú. Nhìn nghĩa trang Gallipoli mãi bên tận Thổ Nhĩ Kỳ, tôi lại hình dung ra Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Đọc lại “bài diễn văn Gettysburg” của tổng thống Abraham Lincoln, lắng nghe những lời của tổng thống Mustapha Kemal tại nghĩa trang Gallipoli, tôi không thể không nghĩ đến chiến thắng đích thực trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào. Đó là chiến thắng của hòa giải và tha thứ trên bất khoan nhượng và hận thù. Đó là chiến thắng của tình người và lòng vị tha  trên những toan tính ích kỷ. Đó là chiến thắng của Sự Thật trên Dối Trá và Lừa Gạt .
Nghi lễ của ngày Anzac nào cũng bắt đầu vào lúc hừng đông và kết thúc khi mặt trời vừa ló dạng. Tôi cũng mong có ngày mặt trời của Sự Thật, Công Lý và nhứt là Tình Thương  sớm chiếu tỏa trên quê hương vẫn còn đắm chìm trong tăm tối của Hận Thù và Khốn Khổ.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét