Chu Thập
23/04/14
Mỗi năm, cứ đến ngày Anzac 25 tháng 4, tuy không phải là dân Úc chính hiệu,
tôi cũng hướng lòng về Gallipoli, Thổ Nhĩ Kỳ, để tưởng nhớ các chiến sĩ Úc đã bỏ
mình trong thời Đệ nhứt Thế chiến và dĩ nhiên cùng với họ, tôi cũng không quên
tất cả những binh sĩ Úc đã hy sinh trong mọi cuộc chiến có sự tham gia của quân đội Úc.
Lòng biết ơn không cho phép tôi loại trừ họ, bằng cách này hay cách khác, ra khỏi
ký ức của mình.
Biết ơn các chiến sĩ Úc, tôi thấy cũng không thể quên được tấm lòng của một
người Thổ Nhĩ Kỳ đã từng được thế giới đề cao như một trong những nhân vật vĩ đại
nhứt trong lịch sử nhân loại: cố tổng thống Mustapha Kemal Ataturk (1881-1938).
Đúng như tước hiệu “Ataturk” (cha già dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ) đã được trao tặng duy
nhứt cho một mình ông, Mustapha Kemal, vị tổng thống đầu tiên của Cộng Hòa Thổ
Nhĩ Kỳ, đã có công khai sinh ra một quốc gia dân chủ đầu tiên trong thế giới Hồi
giáo và biến Thổ Nhĩ Kỳ thành một đất nước văn minh, tiến bộ. Nhưng đáng ghi nhận
nhứt nơi ông, theo tôi nghĩ, chính là tấm lòng độ lượng biết dẹp bỏ hận thù để
xây dựng tình thương và củng cố quan hệ thân hữu với các nước cựu thù. Việc cho
phép và khuyến khích chỉnh trang các nghĩa trang của quân đội Đồng Minh, cách
riêng quân đội Úc, tại Gallipoli là một cử chỉ cụ thể nói lên tấm lòng độ lượng
ấy. Là một vị tướng chỉ huy thành công trong việc đẩy lui quân đội Đồng Minh trong
trận chiến Gallipoli, Mustapha Kemal đã không cư xử với thái độ đắc thắng của một
kẻ chiến thắng. Trái lại, ông đã xem những người nằm xuống của bên chiến bại
như bạn hữu và ngay cả như những người con của đất nước mình. Năm 1934, trong
bài diễn văn đọc trước một phái đoàn gồm người Úc, Tây Tân Lan và Anh đến viếng
thăm trận địa Gallipoli, vị tổng thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ đã ngỏ lời về
các chiến sĩ Đồng Minh đã ngã gục tại đây bằng những lời lẽ như sau:
“Những vị anh hùng này đã đổ máu và
đã hy sinh mạng
sống của mình. Giờ đây, các bạn đang nằm trên mảnh đất của một
nước bạn. Do đó, các bạn hãy nghỉ yên.
Đối với chúng tôi, không có sự
khác biệt giữa những “Johnny” (tên gọi quen thuộc của Anh, Mỹ, Úc, Gia Nã Đại
và Tân Tây Lan) và những “Mehmet” (tên gọi quen thuộc của người Thổ Nhĩ Kỳ) tại
những nơi họ đang nằm nghỉ bên cạnh nhau trong đất nước của chúng tôi.
Về phần mình, hỡi các bà mẹ là những
người đã gởi con ra khỏi đất nước của mình, các bà hãy lau sạch nước mắt. Con
trai của các bà hiện đang nằm trong lòng chúng tôi và đang nghỉ giấc bình an.
Sau khi đã bỏ mình trên mảnh đất
này, họ cũng đã trở thành con cái của chúng tôi.”
(http://www.awm.gov.au/encyclopedia/ataturk.asp)
Vị cha già dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ có vĩ đại là bởi tấm lòng độ lượng và khoan
nhượng của ông. Hẳn tổng thống Mustapha Kemal là người rất am hiểu lịch sử Hoa
Kỳ, nhứt là trong thời kỳ lập quốc, bởi vì cử chỉ khoan nhượng của ông không thể
không làm tôi nhớ lại thái độ cao thượng của một trong những nhà lập quốc vĩ đại
của Hoa Kỳ là tổng thống Abraham Lincoln (1809-1865), người thường được mệnh
danh là Nhà Giải phóng Vĩ đại. Vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ này đã để lại một
bài diễn văn được xem là một trong những văn kiện hay nhứt bằng Anh Ngữ trong
suốt lịch sử nhân loại. Bài diễn văn thường mệnh danh là “bài diễn văn
Gettysburg” vì được đọc trong buổi lễ
cung hiến Nghĩa trang Chiến sĩ quốc gia tại Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania
ngày 19 tháng 11 năm 1863, bốn tháng rưỡi sau khi xảy ra trận Gettysburg đẫm
máu trong đó quân đội Liên bang dành được chiến thắng vẻ vang. Trong bài diễn
văn lịch sử dài 272 chữ và kéo dài không quá 3 phút, tổng thống Lincoln đã đề
cao gương anh dũng hy sinh của các chiến sĩ của Liên Bang cũng như của Liên
Minh miền Nam. Ông mở đầu bài diễn văn bằng cách nhấn mạnh đến lý tưởng tự do
và bình đẳng: “Tám mươi bảy năm trước,
cha ông chúng ta đã tạo dựng trên lục địa này một quốc gia mới được thai nghén
trong Tự Do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều Bình Đẳng”.
Chính vì lý tưởng và niềm xác tín ấy mà hai bên, Liên Bang cũng như Liên Minh
Miền Nam đã gặp nhau trên “bãi chiến trường này”. Theo tổng thống Lincoln, chính
các chiến sĩ, bất luận thuộc bên nào, mới là những người đã cung hiến mảnh đất
này. Kết thúc bài diễn văn, tổng thống Lincoln nói: “Thế giới sẽ không quan tâm, cũng chẳng nhớ đến những gì chúng ta đang
nói ở đây, nhưng thế giới sẽ không bao giờ quên những gì họ đã làm tại đây.”
(http://www.abrahamlincolnonline.org/lincoln/speeches/gettysburg.htm)
Dĩ nhiên, thế giới đã không bao giờ quên cuộc nội chiến nhờ đó Hoa Kỳ đã
trưởng thành hơn trong lý tưởng Tự Do và niềm xác tín về Bình Đẳng. Nhưng chính
tổng thống Lincoln đã xóa bỏ làn ranh giữa hai chiến tuyến để đề cao gương anh
dũng hy sinh của các chiến sĩ, bất luận thuộc bên nào, mà thế giới vẫn mãi mãi
không bao giờ quên được “bài diễn văn Gettysburg” của ông.
“Bài diễn văn Gettysburg” của tổng thống Lincoln nay đã được đúng 150 tuổi.
Bài diễn văn của tổng thống Mustapha Kemal tại nghĩa trang Gallipoli cũng đã
tròn 80 tuổi. Thời xa xưa, nhiều vị nguyên thủ quốc gia đã biết nghĩ đến chuyện
xóa bỏ hận thù để chỉ nghĩ đến hòa giải và tha thứ, cũng như bày tỏ một niềm
tôn kính sâu xa đối với các tử sĩ, bất luận họ thuộc bên “thắng cuộc” hay bên
“chiến bại”.
Có bao giờ người Việt Nam chúng ta sẽ nghe được một bài diễn văn như thế tại
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa không? Tôi mong điều đó biết chừng nào! Tôi chưa
từng đặt chân vào Nghĩa Trang này, trước cũng như sau năm 1975. Nhưng tôi tin rằng
nhà văn Giao Chỉ đã không quá phóng đại hay thêu dệt khi mô tả lại tình trạng của
Nghĩa Trang này như sau: “Ngày 30/4/1975”, quê hương Việt Nam vào tay cộng sản.
Sau những chiến dịch đánh tư sản mại bản, đánh tư thương, và đánh tất cả các
ngành khác mà chung qui là chúng tịch thu tất cả cơ sở kinh doanh sản xuất của
tư nhân và chia chác tài sản quốc gia. Đó là về vật chất, còn về con người thì
hằng trăm ngàn quân nhân, viên chức, cán bộ, và một số dân thường, bị chúng đẩy
vào các trại tù mà chúng gọi là trại cải tạo không thời hạn. Đó là hành hạ trả
thù người còn sống, còn đối với những quân nhân tử trận nằm im trong lòng đất vẫn
bị hành hạ trả thù, bằng cách ủi bằng các nghĩa trang địa phương để xây dựng
nhà ở hay cơ sở trên đó. Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa cũng bị phá hoại dưới
nhiều hình thức khác nhau, do một đơn vị quân đội của họ trú đóng nơi đây đập
phá. Trong thập niên 1990, có tin CSVN giao cho một công ty Đài Loan xây dựng
khu kỹ nghệ, nhiều thân nhân xôn xao vội vàng bốc mộ, nhưng không rõ việc gì đã
xảy ra mà họ không thực hiện. Do vậy mà Nghĩa Trang vẫn còn đó dù chỉ là từng
phần từng mảng trong điêu tàn hoang phế!...
Theo tác giả có bút hiệu “Người Giữ Mộ” thì năm 1983, sau khi ra tù, tác giả
đến nơi an nghỉ của những chiến sĩ đã tròn nhiệm vụ với quốc gia dân tộc, để cảm
nhận cảnh tiêu điều hoang phế của Nghĩa Trang! Loại cây Hắn Hương rất nhiều rất
cao, che phủ Nghĩa Trang, phải len chân mới di chuyển được. Tất cả mộ bia đều bị
đập phá hình, khoảng 50% mộ bia ngã xuống đất, phần còn lại thì ngả nghiêng
xiêu vẹo, riêng bia của 8 vị Tướng bị đập phá hoàn toàn, nắp xi măng trên phần
mộ bị nhà cầm quyền đem cấp phát cho các cơ quan của họ, trong đó có câu lạc bộ
bệnh viện Từ Dũ. Thân “Con Ong”, tức là những khu đất phần mộ, trở nên loang lở
do bị đào xới” (Việt Báo, Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, 19/4/2014).
30 tháng Tư hàng năm, đọc lại những dòng trên đây mà thấy xót xa. Người sống,
dù thế nào đi nữa, cũng có thể bương chải để sống còn. Nhưng người chết, nhứt
là những người vị quốc vong thân, nếu không được mồ yên mả đẹp thì lẽ ra, vì
truyền thống “nghĩa tử nghĩa tận” của dân tộc, không đến nỗi phải bị mang ra
cày xéo thêm một lần nữa. Vậy mà “Bên thắng cuộc” vẫn cứ say men chiến thắng và
say cả máu người để tiếp tục dẫm đạp lên phần linh thiêng nhứt của con người là
mộ phần.
Chiến tranh nào cũng có hồi kết thúc. Có kẻ chiến thắng. Có người chiến bại.
30/4/1975, như nhà báo Huy Đức trong nước đã ghi lại trong tác phẩm “Bên Thắng
Cuộc”, muốn hay không, xét về quân sự, rõ ràng là những người cộng sản Miền Bắc
đã đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”. Nhưng cũng do chính tác giả này nhận định, “kẻ
thắng cuộc” đích thực lại không phải là những người cộng sản Miền Bắc, mà chính
là Miền Nam Tự Do. Chỉ cần hình ảnh của một “bộ đội” Dương Thu Hương, khi vào
“tiếp thu” Sài Gòn, đã phải ngồi ôm mặt khóc ròng trước cảnh tượng của một Miền
Nam Tự Do và Thịnh Vượng (vì biết mình bị Bác và Đảng lừa gạt) cũng đủ để nói
lên ai mới thực sự là “Bên Thắng Cuộc”. Có anh bộ đội bà con từ Bắc vào Nam
thăm thân nhân. Mặc dù sau 1975, thiếu ăn thiếu mặc, gia đình người thân cũng cố
làm một bữa cơm xoàng để đãi anh. Không ngờ, chỉ thưởng thức món rau muống chẻ
trộn thịt bò thôi, anh đã luôn miệng khen: “Sao mà nó ngon thế, sao mà nó “đế
quốc” thế, sao mà nó “nãng mạn” thế”. Không cần phải là một Dương Thu Hương,
khi khám phá ra bộ mặt thật của thịnh vượng, tự do của Miền Nam, mới bưng mặt
khóc. Có lẽ tôi cũng sẽ khóc khi nhìn gương mặt ngây ngô của anh “bộ đội cụ Hồ”
lần đầu tiên được thưởng thức món rau muống chẻ trộn dầu giấm ăn với thịt bò của
đế quốc! Khóc vì sao thấy trên đời này có những người tội nghiệp đến thế.
Miền Nam không chỉ giải phóng Miền Bắc bằng sự giàu có, tự do và dân chủ,
mà còn “chiến thắng” bằng tình người và tinh thần nhân bản vốn đã hoàn toàn bị
thui chột dưới chế độ cộng sản Miền Bắc.
Tưởng niệm các chiến sĩ Úc trong Ngày Anzac, nhưng tâm hồn tôi lại hướng đến
Ngày 30 tháng Tư Đen, ngày mà nhà văn Liêu Thái trong nước đã gọi là “Ngày Oan
Hồn”, ngày đã đẩy không biết bao nhiêu người Việt Nam đang sống cũng như đã qua
đời thành những oan hồn vất vưởng không nơi cư trú. Nhìn nghĩa trang Gallipoli
mãi bên tận Thổ Nhĩ Kỳ, tôi lại hình dung ra Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Đọc
lại “bài diễn văn Gettysburg” của tổng thống Abraham Lincoln, lắng nghe những lời
của tổng thống Mustapha Kemal tại nghĩa trang Gallipoli, tôi không thể không nghĩ
đến chiến thắng đích thực trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào. Đó là chiến thắng
của hòa giải và tha thứ trên bất khoan nhượng và hận thù. Đó là chiến thắng của
tình người và lòng vị tha trên những
toan tính ích kỷ. Đó là chiến thắng của Sự Thật trên Dối Trá và Lừa Gạt .
Nghi lễ của ngày Anzac nào cũng bắt đầu vào lúc hừng đông và kết thúc khi mặt
trời vừa ló dạng. Tôi cũng mong có ngày mặt trời của Sự Thật, Công Lý và nhứt
là Tình Thương sớm chiếu tỏa trên quê
hương vẫn còn đắm chìm trong tăm tối của Hận Thù và Khốn Khổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét