Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2018

Hòa giải trong sự thật


Chu Thập
Phục sinh 2014
Hôm thứ Hai 7 tháng 4 năm 2014 vùa qua, Cộng hòa Rwanda, một quốc gia nằm ở miền Trung Đông Phi Châu, đã tổ chức tưởng niệm 20 năm cuộc  diệt chủng được xem là khủng khiếp nhứt trong lịch sử nhân loại. Khủng khiếp đến độ, tôi nhớ có đọc một bài tường thuật của một nhà truyền giáo, vốn đã chứng kiến cái cảnh trung bình cứ 10 giây có một người bị tàn sát một cách dã man, đã phải thốt lên: “Có lẽ quỷ dữ đã thoát ra khỏi hỏa ngục!” Chỉ trong 100 ngày, từ ngày 7 tháng Tư đến giữa tháng 7 năm 1994, đã có từ 500 ngàn đến một triệu người, mà phần lớn là người thuộc sắc tộc Tutsi, bị người Hutu sát hại. 20 năm sau, những nỗ lực tái thiết của quốc gia này được thực hiện song song với quyết tâm hòa giải và tha thứ. Một vài hình ảnh về hòa giải và tha thứ được trình chiếu trên Đài SBS trong chương trình tối thứ Ba 8 tháng 4 vừa qua, đã tạo ra trong tôi những cảm xúc thật mãnh liệt. Một phụ nữ Tutsi đã ôm chầm người thanh niên đã từng tấn công cô và tha thứ cho anh, sau khi người thanh niên này bị giam tù 8 năm. Câu chuyện của một người đàn ông khác còn cảm động hơn: anh đã thương và cưới con gái của một người đàn ông Hutu, người đã từng cộng tác vào việc sát hại gần 30 người thân trong gia đình của anh. Cả người phụ nữ lẫn người đàn ông thuộc sắc tộc Tutsi trên đây đều nói rằng họ không thể làm gì khác hơn là hòa giải với và tha thứ cho kẻ thù của mình. Nhưng dĩ nhiên, trên qui mô quốc gia, hòa giải và tha thứ chỉ có thể thực hiện được khi sự thật được nhìn nhận và phơi bày. Tưởng niệm cuộc diệt chủng đối với người dân Rwanda hiện nay chính là nhìn nhận rằng trong lịch sử đất nước đã từng có một cuộc diệt chủng dã man và những người đã từng chủ mưu hay nhúng tay vào tội ác đều phải nhận lãnh trách nhiệm và trả lại công lý cho các nạn nhân. Cũng như sự thật lịch sử về cuộc diệt chủng người Do Thái do Đức quốc xã chủ xướng, sự thật về bất cứ cuộc diệt chủng nào cũng đều phải được nhìn nhận như nền tảng để thực thi hòa giải.
Tại Nam Phi, tuy không có một cuộc diệt chủng trong suốt thời gian cai trị với chính sách phân biệt chủng tộc của thiểu số người da trắng, nhưng liền sau khi người tù của thế kỷ 20 là Nelson Mandela được trả tự do và trở thành người da đen đầu tiên được bầu làm tổng thống của quốc gia này, một Ủy ban có tên là “Sự Thật và Hòa Giải” đã được thiết lập. Mục đích của Ủy ban là kêu gọi tất cả những ai đã từng là nạn nhân của chế độ phân biệt chủng tộc ra làm chứng về tội ác của chế độ. Bên cạnh họ, những người đã từng tham gia vào tội ác trong chế độ này cũng được mời ra cung khai và nhìn nhận trách nhiệm của mình. Nam Phi hiện chưa phải là một nền dân chủ hoàn hảo, nhưng ít ra nền dân chủ này đã đặt nền móng trên sự thật. Không thể nói đến hòa giải và tha thứ khi sự thật không được tôn trọng và cũng không thể có dân chủ thật sự nếu nó không được xây dựng trên sự thật.
Nghe chuyện hòa giải dân tộc diễn ra đó đây trên thế giới, tôi cũng mong sao một ngày nào đó điều này cũng sẽ trở thành sự thật trên quê hương tôi. Tôi mừng thầm khi mới thoáng đọc được lời kêu gọi “lấy chân thành xóa hố sâu thù hận” của thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Thanh Sơn. Ông này đã tổ chức được hai chuyến viếng thăm quần đảo Trường Sa dành riêng cho “kiều bào” Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài. Trong lần thứ ba sắp tới, ông loan báo sẽ có lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tử trận để bảo vệ Hoàng Sa và các thuyền nhân tử nạn. Nghe cảm động muốn rơi nước mắt! Nhưng đọc kỹ bài phỏng vấn ông dành cho báo Tuổi Trẻ hôm 4 tháng Tư vừa qua (x. Đàn Chim Việt.Info 7/4/14), tôi hoàn toàn thất vọng, nếu không muốn nói “nổi giận” là khác.
Trong bài phỏng vấn, ông Nguyễn Thanh Sơn cho biết có mời “một số nhà báo, một số người xưa nay vẫn chống đối rất cực đoan”. Ngoài ra, còn có đại diện của 6 tôn giáo lớn tham dự. Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam còn cho biết lễ cầu siêu không chỉ dành riêng cho các anh hùng liệt sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam đã hy sinh trong quá trình bảo vệ biển đảo cũng như “ghi nhận sự hi sinh của những người lính Việt Nam Cộng Hòa trong lực lượng hải quân đã bảo vệ Hoàng Sa năm 1974”. Không gì cảm động bằng khi nghe ông cũng nhắc đến việc “tưởng nhớ và thương tiếc những người dân Việt Nam vô tội đã ra đi và bị chết trong cuối thập kỷ 1970, đầu thập kỷ 1980”. Nhưng cái bộ mặt đểu giả của một tên Việt Cộng chính cống đã hiện nguyên hình khi ông giải thích: “Chúng tôi coi những thuyền nhân tử nạn là nạn nhân chiến tranh, ra đi vì bị tuyên truyền, kích động bởi thông tin một chiều, bởi khó khăn về  đời sống kinh tế và nhiều nguyên nhân khác”.
Một người tỵ nạn cộng sản như tôi không thể không cảm thấy bị xúc phạm khi bị xem như một thành phần bỏ nước ra đi vì “bị tuyên truyền, kích động bởi thông tin một chiều hoặc bởi khó khăn vì kinh tế” chớ không phải vì trốn chạy chế độ cộng sản độc tài khát máu. Tôi lại càng cảm thấy bị xúc phạm hơn nữa khi ông Nguyễn Thanh Sơn bảo rằng trong “rất nhiều năm qua, một số bà con cô bác chúng ta ở bên ngoài nghe thông tin một chiều, hiểu không đúng về tình hình đất nước, đặc biệt là chủ quyền biển đảo”.
Thì ra, ở đâu đó trên thế giới, hòa giải dân tộc là chuyện có thực. Còn tại Việt Nam ngày nay, dưới những khẩu hiệu hoa mỹ như “lấy chân thành xóa hố sâu hận thù”, hòa giải dân tộc chỉ là trò giả nhân giả nghĩa mà thôi. Tôi không tin có một người cộng sản nào dám nói và sống cho sự thật. Đã nói và sống cho sự thật thì còn gì là “cộng sản” nữa. Xét về lý thuyết, tôi chẳng hiểu hoặc chỉ hiểu lơ tơ mơ về ý thức hệ cộng sản. Nhưng nếu có ai định nghĩa “cộng sản” thiết yếu, nghĩa là tự bản chất, là “dối trá” thì tôi tin như kinh tin kính.
Theo tôi, để thực sự có hòa giải dân tộc thì trước tiên những người cộng sản phải nhìn nhận và tôn trọng sự thật đã. Trước hết là sự thật về con người của ông Hồ Chí Minh. Cho tới nay, đàng sau cái lớp phấn sáp bao phủ cái xác ướp thối tha đang được đặt trong lăng Ba Đình, là cả một trời “dối trá”: dối trá do chính ông Hồ tự dựng lên về mình để tự đưa mình lên chín tầng trời của tài năng và đức độ, dối trá do cả một chế độ độc tài đã “phịa” ra từ gần 70 năm nay.
Sau sự thật về con người của ông Hồ Chí Minh, những người cộng sản cũng phải nhìn nhận sự thật về không biết bao nhiêu tội ác mà ông Hồ đã gây ra cho các thành viên của các Đảng phái bên ngoài cộng sản, những người đã góp phần cho ông đưa cộng sản lên nắm chính quyền. Lịch sử vẫn còn đó. Người Việt Nam trong nước, vì chỉ biết thông tin một chiều, có thể không biết hoặc không màng đến sự thật ấy. Nhưng ở nước ngoài, nhứt là trong thời đại thông tin toàn cầu và sau khi chủ nghĩa cộng sản Liên Xô đã cáo chung và các chế độ cộng sản Đông Âu đã sụp đổ, người Việt tỵ nạn đang sống trong những nước dân chủ và tự do không hề bị thông tin một chiều lung lạc! Sự thật lịch sử đều đã được phơi bày rành rành ra đó.
Làm sao chối cãi được sự thật về cuộc Cải cách ruộng đất “long trời lở đất” khiến cho bao nhiêu người vô tội đã bị sát hại bằng những phương pháp tàn bạo chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Phủ nhận sao được sự thật về những cuộc đấu tố dã man đối với các văn nghệ sĩ Miền Bắc trong thời Nhân Văn Giai Phẩm. Nhắm mắt làm ngơ sao được trước biến cố Mậu Thân ở Huế, trong đó có cả hàng ngàn người bị hành quyết hoặc chôn sống một cách dã man. Còn có chút lương tri liệu có thể không nhìn nhận thảm cảnh của “triệu triệu (chớ không phải chỉ có một triệu như cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói) người buồn” trong khi chỉ có “một triệu người vui” vì cuộc chiến phi lý dã man do những người cộng sản chủ xướng không? Và có lẽ phải đui mù, điếc lác cả thể lý và tinh thần thì may ra mới không nhìn nhận rằng bao nhiêu quân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa đã bị đày đọa và hành hạ cho đến chết trong những trại khổ sai được ngụy tạo dưới danh nghĩa “trại cải tạo”.
Và ngày nay, liệu có phải là chuyện thông tin một chiều không khi người dân trong nước cũng như ở hải ngoại cứ phải chứng kiến và nghe những vụ cướp ngày diễn ra như cơm bữa hoặc bao nhiêu người thiện chí cứ mở miệng góp ý, phê bình là bị tù, có khi cho đến chết như trường hợp mới nhứt là thày giáo Đinh Đăng Định. Nói gì đến những tệ nạn xã hội và thảm kịch của người phụ nữ Việt Nam phải bị bán đi làm vợ cho tứ phương thiên hạ. Nói gì đến chuyện người Việt Nam đi đến đâu cũng đều bị các nước láng giềng kêu gọi đề cao cảnh giác vì thói ăn cắp vặt hoặc chẳng có chút tư cách nào trong việc ăn uống trong các nhà hàng. Đó không phải là sự thật sao?
Xét cho cùng, chỉ có một sự thật mà người cộng sản phải nhìn nhận nếu muốn thực thi hòa giải: kể từ khi chủ nghĩa cộng sản bị áp đặt xuống Miền Bắc và kể từ khi Miền Nam Việt Nam bị “cướp” theo đúng nghĩa, cả dân tộc Việt Nam đã và đang  bị đọa đày trong lầm than, khốn khổ, nô lệ và chết chóc.
Là một tín hữu Ki-tô, trong những ngày này, khi thế giới Ki-tô giáo đang chuẩn bị mừng Lễ Phục Sinh, tôi thường suy nghĩ về hai chữ “hòa giải”. Các tín hữu được khuyến khích “hòa giải” với tha nhân xuyên qua việc xưng thú tội lỗi của mình. Sự việc diễn ra một cách kín đáo, chẳng ai biết được người tín hữu “xưng thú” điều gì khi họ đến gặp linh mục. Chỉ có điều chắc chắn là để được hòa giải với tha nhân, họ cần phải nhìn nhận những lỗi phạm và bất công cách này hay cách khác mình đã gây ra cho tha nhân. Niềm vui lớn nhứt mà có lẽ người tín hữu cảm nhận được khi hòa giải với tha nhân chính là cảm thấy mình được “giải thoát”: giải thoát khỏi xiềng xích của ích kỷ, hận thù và nhứt là dối trá.
Suy nghĩ về hai chữ “hòa giải”, tôi không thể không nhớ lại lời dạy của Chúa Giêsu: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32).
Kể từ khi Miền Nam Việt Nam bị cộng sản “cướp”, ý nghĩa của hai chữ “giải phóng” đã hoàn toàn bị đảo lộn. Kẻ nô lệ tự cho mình là người giải phóng.  Ít ra có một người, vốn chỉ biết thông tin một chiều, là nhà báo Huy Đức cuối cùng đã “ngộ” ra rằng không phải bên “thắng cuộc” là người cộng sản mới là người giải phóng, mà chính người dân Miền Nam mới thực sự là người giải phóng, bởi lẽ chính họ mới mở mắt cho người miền Bắc biết được thế nào là dối trá, thế nào là sự thật và thế nào là tự do. Bao lâu vẫn còn bị trói buộc trong xiềng xích của hận thù và dối trá, nghĩa là không chịu nhìn nhận tội ác mình đã và đang gây ra cho dân tộc, thì xin chớ nói đến “giải phóng” và nhứt là hòa giải, bởi lẽ hòa giải chỉ có trong sự thật mà thôi.
Mà Sự Thật liệu có còn tồn tại ở Việt Nam sau gần bảy thập niên qua hay không?











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét