Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018

Tháng Tư Đen, nghĩ về lòng biết ơn



Chu Thập
02/04/14
Tối thứ Hai 31 tháng 3, 2014 vừa qua, Đài Truyền Hình SBS có chiếu một phóng sự ngắn về việc một số người tỵ nạn Việt Nam từ Melbourne đã bày tỏ lòng biết ơn với một vị thuyền trưởng Hòa Lan mà họ gọi là vị cứu tinh của mình.
Với tựa đề “Món quà của Lòng Biết ơn” (Gift of gratitude), bài phóng sự kể lại rằng dạo tháng 2 năm 1982, một chiếc tàu chở hàng của Hòa Lan đã vớt được một nhóm thuyền nhân Việt Nam. Những thuyền nhân này đã lênh đênh trên biển trong nhiều ngày do tàu chết máy và lương thực cũng như nước dự trữ đã cạn. Alisha Fernando là thuyền nhân trẻ nhứt trên chiếc tàu vượt biên. Cô bé chỉ mới được hai tuổi.
Cô nói với phóng viên của Đài SBS rằng nếu không được tàu Hòa Lan vớt, có lẽ tất cả các thuyền nhân đều sẽ chết chìm dưới biển.
Đêm đó, thuyền trưởng Willem Christ của chiếc tàu Hòa Lan và thủy thủ đoàn của ông đã vớt được 168 người, trong đó có Alisha, cha mẹ và chú của cô. Họ được đưa vào trại tỵ nạn Pulau Bidong, Mã Lai và sau đó được định cư tại Úc Đại Lợi.
Vừa đặt chân đến quê hương mới, mẹ cô Alisha đã tìm cách liên lạc với thuyền trưởng Christ. Và ngày nay, 30 năm sau, bà và người con gái của bà đã lên đường đến Amsterdam để gặp gỡ với người mà lúc nào họ cũng gọi là vị cứu tinh của mình. Cô Alisha nói: “Thật là một món quà kỳ diệu khi cuối cùng tôi đã có được cơ hội gặp lại người đã cứu sống tôi. Ông là người đã giúp tôi và cha mẹ tôi có được cuộc sống như ngày hôm nay. (Nếu không) biết đâu tôi lại chẳng là một người ăn xin trên đường phố ở Việt Nam hoặc là một con số trong những thống kê về chiến tranh”.
Sự may mắn mà cô Alisha, gia đình cô và những thuyền nhân  được viên thuyền trưởng Hòa Lan cứu sống, cũng chính là sự may mắn mà tôi và hàng triệu người Việt Nam khác đã có được trong cuộc vượt thoát khỏi thiên đường cộng sản sau năm 1975. Chúng tôi quả là những người Việt Nam may mắn. Bởi lẽ, như cô Alisha đã nói, nếu không thoát khỏi Việt Nam thì ngày nay chúng tôi sẽ như thế nào. Ăn xin trên đường phố quả là một điều tủi nhục. Nhưng chúng ta sẽ nghĩ gì về nỗi tủi nhục của những cô gái Việt Nam bị bán đi làm vợ cho tứ phương thiên hạ, từ Trung Quốc, Đại Hàn, Đài Loan...đến cả Phi Châu. Bên cạnh nỗi tủi nhục riêng tư ấy, còn có nỗi tủi nhục “quốc thể” khi những bộ mặt biểu tượng của đất nước là các cô chiêu đãi viên hàng không xinh đẹp lại bị bắt quả tang “ăn cắp” tại Nhựt Bổn. Nhục hơn nữa khi tại Thái Lan, Đài Loan, Đại Hàn, Nhựt Bổn, người ta phải viết những câu bằng ngôn ngữ của đất nước tôi để giải thích về tính phạm pháp của hành vi ăn cắp trong các siêu thị. Dường như ở Á Châu, chỉ có một thành phần trộm cắp cần được cảnh cáo và đề cao cảnh giác là người Việt Nam. Và có lẽ cũng chỉ có một thành phần tham ăn cần được hướng dẫn để không ăn uống một cách phí phạm. Tôi nghĩ rằng người ta có quyền quơ đũa cả nắm khi nói về người Việt Nam, bất luận là người Việt Nam mang quốc tịch của cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay người Việt Nam đang là công dân của những quốc gia tự do, dân chủ và văn minh. Không cần phải mang thông hành xã hội chủ nghĩa Việt Nam để đi đâu cũng bị “soi xét” như Đức Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt đã từng phàn nàn. Nhiều lần ở các phi trường, tôi đã bị các nhân viên hải quan gọi riêng ra để “làm việc”, vì là người Việt Nam, tôi biết mình bị tình nghi có mang theo ma túy hay đồ quốc cấm nào đó. Tôi không  trách người ta có thái độ kỳ thị chủng tộc đối với mình, bởi vì cứ nghe nói đến chuyện “trồng cỏ” ở đâu đó tại Úc Đại Lợi, tại Anh Quốc hay Gia Nã Đại...thì những cái tên “Đinh Lê Lý Trần” Nguyễn...quen thuộc của dân tộc tôi lại hiện ra trước tiên.
Nghĩ đến những thiếu nữ Việt Nam bị bán làm vợ cho tứ phương thiên hạ, tôi vừa cảm thấy nhục nhã vừa thương cảm. Họ chỉ là nạn nhân của một chế độ bất nhân và vô cảm. Nghĩ đến những cô chiêu đãi viên hàng không “ăn cắp” hàng từ nước ngoài mang về nước bán, tôi cũng chỉ biết thương cảm. Họ cũng chỉ là nạn nhân của một chế độ không chỉ cướp lấy quyền sống của con người, mà cũng cướp luôn những giá trị nhân bản tốt đẹp nhứt của dân tộc tôi. Nghĩ đến tất cả những người Việt Nam không có được một sự lựa chọn nào khác hơn là phải làm thân phận của “cột đèn” bị chôn chặt trong thiên đường cộng sản, tôi chỉ thấy uất hận và buồn chán: cả một dân tộc phải bị đọa đày trong ngục tù cộng sản!
Giả như không thoát khỏi xã hội cộng sản, biết đâu tôi chẳng có được vinh dự được làm một nhà bất đồng chính kiến đang ngồi tù rục xương, mà chỉ là một tên đầu trộm đuôi cướp hoặc một gã chán đời suốt ngày la cà trong các quán rượu hoặc cà phê vỉa hè để mà than thân trách phận.
Mỗi dạo Tháng Tư Đen trở về, bên cạnh vô số những phiền muộn của một người ly hương, tôi lại thấy mình là một người may mắn. May mắn được hít thở không khí tự do. May mắn có được một cuộc sống xứng với phẩm giá con người. Nhưng may mắn nhứt là được quyền sống như một người lương thiện. Và theo tôi, một trong những nét nổi bật nhứt trong cung cách của một người lương thiện, chính là được nhắc nhở để luôn biết bày tỏ lòng biết ơn. Xã hội tôi đang sống chưa phải là một xã hội hoàn hảo. Tệ nạn xã hội vẫn còn đầy dẫy. Nhưng ít ra, hàng ngày tôi vẫn còn nghe được hai tiếng “cám ơn” trên đầu môi của hầu hết mọi người tôi gặp gỡ. Họ không ngừng nhắc nhở tôi rằng sống là đi vào quan hệ tương thuộc với người khác và sống cho thực sự ra người là phải biết mình mang ơn mọi người cách này hay cách khác.
Tôi không cho là phóng đại hoặc tổng quát hóa một cách quá chủ quan khi bảo rằng hai tiếng “cám ơn” đã trở thành quý hiếm trong xã hội Việt Nam hiện nay. Bất cứ ai một lần về thăm quê hương cũng đều nhận ra điều đó. Hai tiếng ấy đã hầu như trở thành một phản xạ tự nhiên của người Việt (chớ không phải Việt Kiều như thường bị gọi) đang là công dân tại các nước nơi họ đã định cư. Nói theo kiểu nói của tác giả Nguyễn Khắp Nơi, “Người Việt tôi là thế đấy”. Từ ngàn xưa, người Việt tôi đã biết trọng lễ nghĩa, xem lòng biết ơn như cốt lõi của nhân cách con người. Nhưng  đối với người Việt trong nước hiện nay, nếu hai tiếng cám ơn có trở thành quý hiếm là bởi nó đã bị xóa bỏ khỏi tự điển của người cộng sản và lòng biết ơn dường như cũng đã trở thành một thứ xa xí của chủ nghĩa tư bản cần phải tẩy trừ.
Những người cộng sản lúc nào cũng vỗ ngực tự xưng là vô thần. Thật ra, trước khi là vô thần, họ đã là đồ “vô ơn”. Tôi không cần phải nhắc lại chuyện những người cộng sản đã mang không biết bao nhiêu “ân nhân”, những người đã từng bao che họ ra đấu tố trong thời Cải cách ruộng đất hoặc ép buộc cha mẹ, vợ chồng con cái bôi mặt nhau để mà sỉ vả nhau. Tôi cũng không cần phải nhắc lại chuyện những người cộng sản đã quay lưng lại với chính những người mà họ gọi là “mẹ chiến sĩ”, những người đã từng nhịn ăn nhịn mặc, bảo vệ họ ngay trong “đất địch” để họ có chiến thắng hôm nay. Chỉ cần đọc  khẩu hiệu: “Yêu tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa” là tôi đã thấy ngay bộ mặt vô ơn của họ. Phải yêu xã hội chủ nghĩa mới yêu tổ quốc, nói như thế là chối bỏ công ơn dựng nước giữ nước của các bậc tiền nhân của dân tộc. Họ có biết mặt mũi của xã hội chủ nghĩa như thế nào đâu mà yêu với thương. Thế chẳng lẽ những tiền nhân, vì không biết và không yêu xã hội chủ nghĩa, nên họ là người “phản quốc”?  Thật là đồ “vô ơn” khi bảo rằng các bậc tiền nhân của dân tộc không yêu tổ quốc.
Một khẩu hiệu khác cũng nói lên bộ mặt vô ơn của người cộng sản. Tưởng nhớ các bậc anh hùng liệt sĩ, những người đã hy sinh cho tổ quốc, người cộng sản không “ghi ơn” hay “nhớ ơn” như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, mà chỉ có “ghi công”. “Công” thì được ghi, nhưng “ơn” thì không cần phải nhớ. Tôi không phải mất giờ để mà vạch lá tìm sâu về thái độ vô ơn của người cộng sản. Một dân tộc vốn trọng lễ nghĩa, lấy lòng biết ơn làm nền móng của tòa nhà nhân cách, nay lại trở nên “xa lạ” với lòng biết ơn. Ai đã làm cho dân tộc tôi nên nỗi này?
Chuyện cô Alisha cùng mẹ lên đường đi Hòa Lan để bày tỏ lòng biết ơn với vị ân nhân của mình, như Đài Truyền Hình SBS trình chiếu, không phải là một “biến cố” trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Các cơ quan truyền thông Việt ngữ ở hải ngoại đã ghi lại không biết bao nhiêu cuộc “hành trình” của lòng biết ơn ấy nơi người Việt tỵ nạn. Họ không chỉ hít thở không khí tự do. Họ không chỉ có đủ mọi quyền làm người. Để sống xứng với phẩm giá con người và sống cho ra người, lúc nào họ cũng được nhắc nhở để tỏ lòng biết ơn.
Mỗi dạo Tháng Tư Đen trở về, tôi không chỉ thấy dấy lên trong tâm tư nỗi buồn và lòng thương cảm khi nghĩ đến cả dân tộc đang bị đọa đày trong ngục tù cộng sản và không có điều kiện để phát huy những giá trị nhân bản cao quý của dân tộc, tôi cũng được mời gọi để không ngừng tri ơn tất cả những ai đã góp phần cho tôi có được cuộc sống như ngày hôm nay. Trước hết là những người đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi vượt thoát khỏi thiên đường cộng sản. Kế đó là viên thuyền trưởng, các thủy thủ và nhân viên trên chiếc tàu khoan dầu trong vùng biển Nam Dương đã cứu vớt chúng tôi và đưa về trại tỵ nạn. Rồi sau đó, làm sao quên được đất nước tạm dung, nơi tôi thực sự nếm trải được thế nào là tự do và tình người. Nhưng dĩ nhiên, tôi không biết bao giờ mình mới trả ơn cho hết đối với đất nước đã được tôi chọn làm quê hương thứ hai. Thật ra đất nước này sẽ chẳng là gì nếu không có những con người tôi đang sống với hay gặp gỡ mỗi ngày. Cách này hay cách khác, tất cả đều là ân nhân của tôi. Và mỗi một ngày qua đi đều thêm một ân tình tôi phải trả với người khác. Người Việt chúng ta thường nói: “Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”. Con người dễ vô ơn. Tôi nhận thấy theo thói thường, người ta chỉ muốn nhận chớ không muốn cho đi. Nếu nhận được một ân huệ nào của người khác thì dễ quên đối với vị ân nhân, còn khi mình làm ơn thì lại nhớ rất dai và muốn người ta phải thể hiện lòng biết ơn đó. Tôi vẫn nhớ giai thoại về kịch tác gia nổi tiếng người Anh, ông George Bernard Shaw (1856-1950). Ngày nọ, ông đi dạo qua những tiệm bán sách cũ. Tình cờ ông thấy có một tuyển tập những vở kịch của ông. Tuyển tập này đã từng được đề tặng cho một người bạn. Ở trang đầu của tuyển tập, ông có đề tặng: “Mến tặng bạn hiền. Thân mến. George Bernard Shaw”. Ông liền mua lại tuyền tập đó và ghi lại lời đề tặng mới: “Lại mến tặng bạn hiền. Thân mến. George Bernard Shaw”.
Cứ tưởng tượng một ngày nào đó, có ai cũng nhắc nhở tôi như thế về lòng vô ơn của tôi, chắc chắn đó phải là ngày buồn nhứt trong đời tôi.
Tháng tư là tháng để tôi nhớ mãi bản sắc tỵ nạn cộng sản của mình. Tôi có mặt trên quê hương mới này bởi vì tôi là một người “chống cộng”. Nhưng với tôi, tháng tư cũng nhắc nhở tôi phải không ngừng cố gắng để sống cho ra người hơn và một trong những đức tính mà bao lâu còn sống tôi còn phải trau dồi là lòng biết ơn. Tôi sẽ thôi là người “chống cộng” nếu tôi trở thành người vô ơn.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét