Chu Thập
23/03/18
Trong tuần lễ này tôi thấy có 2 ngày quốc tế quan trọng,
nhưng có lẽ ít được quan tâm tới. Trước hết là Ngày Quốc Tế Hạnh Phúc
(International Day of Happiness) được cử hành hàng năm vào ngày thứ Ba 20 tháng
Ba. Để chuẩn bị cho ngày này, hồi tuần trước Liên Hiệp Quốc đã cho công bố bản
phúc trình hàng năm về Hạnh Phúc trên thế giới. Bản phúc trình này dựa trên một
số tiêu chuẩn khách quan về phúc lợi của người dân để lượng giá mức độ hạnh phúc của họ tại 156 quốc gia
được khảo sát. Hàng năm một bản phúc trình như thế được cho công bố để gây ý thức
về một trong những quyền căn bản nhất của con người được ghi trong bản Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền là quyền được hạnh phúc. Vào năm 2011, một viên cố vấn
đặc biệt của Liên Hiệp Quốc là ông Jayme Illien đã mở chiến dịch vận động 193
quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc thành lập Ngày Quốc Tế Hạnh Phúc để gây
ý thức về quyền được sống hạnh phúc của mọi người trên thế giới. 20 tháng Ba được
chọn làm Ngày Quốc Tế Hạnh Phúc bởi vì đây là ngày Xuân Phân, tức thời điểm
ngày và đêm bằng nhau. Kể từ năm 2013, năm nào Ngày Quốc Tế Hạnh Phúc cũng đều
được cử hành tại 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Như Tổng thư ký
Liên Hiệp Quốc Ban Ki moon đã giải thích: “Hạnh phúc của toàn thể nhân loại là
một trong những mục tiêu chính của Liên Hiệp Quốc”. Ngày Xuân Phân gợi lên cho
tôi ý tưởng của sự chia đều hạnh phúc cho tất cả mọi người. Mọi người đều có
quyền được hạnh phúc và mọi người đều có nghĩa vụ phải chia sẻ hạnh phúc với người
khác.
Ngày quốc tế quan trọng khác trong tuần này là Ngày Quốc
Tế Chống Kỳ Thị Chủng Tộc được cử hành vào ngày thứ Tư 21 tháng Ba, nghĩa là chỉ
một ngày sau Ngày Quốc Tế Hạnh Phúc. Vào ngày này năm 1960, tại Thành phố
Sharpeville bên Nam Phi đã diễn ra một cuộc biểu tình ôn hòa chống lại những luật
kỳ thị chủng tộc do chính phủ được thiểu số người da trắng lãnh đạo ban hành. Cảnh
sát đã nổ súng vào đám đông khiến cho 69 người bị thiệt mạng. Tại Nam Phi, sau
khi chế độ kỳ thị chủng tộc cáo chung, ngày 21 tháng Ba hàng năm đã được cử
hành như Ngày Nhân Quyền và trở thành lễ nghỉ trên toàn quốc. Năm 1966, Đại Hội
Đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua nghị quyết lấy ngày 21 tháng Ba hàng năm làm
ngày Quốc Tế Chống Kỳ Thị Chủng Tộc và kêu gọi cộng đồng thế giới gia tăng các
nỗ lực để loại trừ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc.
Riêng tại Úc Đại Lợi, kể từ năm 1999, thay vì Ngày Quốc Tế
Chống Kỳ Thị Chủng Tộc, ngày 21 tháng Ba hàng năm được gọi là Ngày Hài Hòa (Harmony
Day). Một cách nôm na, có thể gọi đây là Ngày Sống Chung Hòa Bình giữa mọi chủng
tộc. Cũng như Hoa Kỳ hay Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi là một quốc gia của người di
dân thuộc nhiều màu da, văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo khác nhau. Ngày Hài Hòa
được cử hành tại Úc Đại Lợi là để kêu gọi tôn trọng sự khác biệt về văn hóa,
ngôn ngữ và tôn giáo của mọi người dân trong quốc gia này.
Liên kết hai ngày 20 và 21 tháng Ba lại với nhau, tôi nhận
ra một điều là: một trong những chìa khóa hạnh phúc của con người chính là tấm
lòng khoan nhượng, biết tôn trọng những khác biệt của người khác. Sở dĩ tôi phải
tôn trọng những khác biệt của người khác để được hạnh phúc là bởi vì mọi người
đều là thành phần của một gia đình chung là nhân loại; trong tình liên đới nhân
loại, không ai có thể hạnh phúc một mình; hạnh phúc của người này gắn liền với
hạnh phúc của người khác. Cho nên, dù có những khác biệt, mọi người đều liên kết
với nhau trong cùng một khát vọng là được sống hạnh phúc. Tôi thường có ý nghĩ ấy
mỗi khi đọc và nghiền ngẫm về những lời giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh
đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng.
Một ông bạn của tôi cũng là đệ tử ruột của ngài. Mới đây,
ông bạn này tâm sự rằng mỗi lần gặp căng thẳng hay buồn phiền trong cuộc sống,
chỉ cần đọc một tư tưởng của vị Phật Sống này là thấy tâm hồn được thanh thản tức
khắc. Cùng với sức mạnh giải thoát ấy, những lời giảng dạy của Đức Đạt Lai Lạt
Ma cũng giúp tôi “giác ngộ” về chỗ đứng và mối tương quan của tôi với toàn thể
nhân loại. Trong một bài nói chuyện về sức mạnh của sự tha thứ tại trường Đại học
Limerick, Ái Nhĩ Lan dạo tháng Tư năm 2011, bên kia những khác biệt về màu da,
văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo, nhà lãnh đạo tinh thần này khẳng định rằng “tất cả
chúng ta đều là những con người giống nhau. Sự quan tâm của tôi liên quan đến sự
quan tâm của họ, sự quan tâm của họ liên hệ đến sự quan tâm của tôi. Tôi luôn
luôn xem tôi chỉ là một trong gần 7 tỷ người hiện nay, tôi là một thành phần của
loài người. Do đó hạnh phúc tương lai của tôi hoàn toàn lệ thuộc vào toàn thể
nhân loại. Bất chấp một người có năng lực hay giàu có đến đâu, người ấy vẫn là
một thành phần của nhân loại. Nếu loài người hạnh phúc, hòa bình và thương yêu
nhau hơn, mọi người đều được lợi lộc”. Theo ngài, toàn cầu hóa không chỉ diễn ra
trên bình diện kinh tế, thương mại hay chính trị. Ngài nói: “Trong nền kinh tế
hiện tại, không còn biên giới thực sự nữa. Ngay cả cũng chẳng còn biên giới tôn
giáo”. Tôi muốn quảng diễn thêm tư tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma để nói rằng hạnh
phúc cũng chẳng còn biên giới!
Thế giới hình như lúc nào cũng phải đối mặt với đủ mối đe
dọa. Đe dọa từ một mảnh thiên thạch nào đó đang hướng về trái đất. Đe dọa bởi một
cuộc chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đe dọa từ cuộc chạy
đua võ trang. Đe dọa bởi một cuộc chiến tranh lạnh mới. Đe dọa bởi sự ngông cuồng
của một số nhà lãnh đạo độc tài...Nhưng tôi vẫn luôn nhìn vào thế giới với ánh
mắt lạc quan. Bên cạnh một số nhà lãnh đạo độc tài chuyên gieo rắc khủng bố, hận
thù và chết chóc, vẫn còn có vô số những nhà lãnh đạo trong nhiều lãnh vực khác
tiếp tục làm ngọn đuốc sáng để lúc nào cũng khơi gợi những tình cảm tốt đẹp nhứt
trong con người.
Tôi nghĩ đến thiên tài Stephen Hawking, người chỉ mới thực
sự nằm xuống hôm thứ Tư 14 tháng Ba vừa qua. Ông là một bậc thiên tài theo đúng
nghĩa, mặc dù ông chưa bao giờ tự nhận mình là một thiên tài. Ông có một bộ óc
vĩ đại chẳng kém gì cha đẻ của Thuyết Tương đối là Albert Einstein. Thú thật,
kiến thức khoa học của tôi còn quá mù mờ để có thể hiểu được một cách tường tận
Thuyết Tương đối của Albert Einstein và những khám phá về vật lý học của Tiến
sĩ Stephen Hawking. Riêng Stephen Hawking đối với tôi không chỉ là một nhà bác
học, một bậc thiên tài. Ông cũng là một nhà lãnh đạo tinh thần. Ông không cần
phải đứng trên bục giảng trong một nơi thờ phượng nào đó. Như ông đã từng thú
nhận, ông là một người vô thần. Tôi không quan tâm đến niềm tin tôn giáo của
ông. Điều quan trọng đối với tôi chính là ông đã mang lại niềm cảm hứng cho tôi
để sống cho ra người. Thật vậy, cả cuộc
sống của ông đã là một cuốn sách sống động về rất nhiều đức tính cao đẹp để sống
một cuộc sống có ý nghĩa. Năm 21 tuổi, bị chuẩn đoán mắc chứng teo cơ (ALS:
amyotrophic lateral sclerosis) chẳng khác nào lãnh một bản án tử hình, vậy mà
nhà bác học này đã có thể sống thêm 5 thập niên nữa. Dù thân thể không còn cử động
được nữa, ông không những đã sống và sống như một người bình thường, mà còn
hăng say nghiên cứu để đóng góp vào kho tàng kiến thức khoa học của nhân loại. Ông
để lại một bí quyết: “Mặc dù có một đám mây đang che phủ tương lai của tôi, tôi
ngạc nhiên khi nhận ra rằng tôi vui hưởng cuộc sống hiện tại còn hơn cả trước
kia”. Ông nói: “Cuộc sống sẽ bi thảm nếu nó thiếu sự khôi hài”.
Lạc quan, tin tưởng và sống vui cho nên bậc thiên tài này
lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn. Ông thường nói rằng những kẻ tự cho mình là thiên
tài đều là những người thua cuộc (People who boast about their IQ are losers).
Nhưng tình yêu mới thực sự là sợi chỉ xuyên suốt trong cuộc
sống của bậc vĩ nhân này. Miệt mài nghiên cứu về vũ trụ, cuối cùng ông tuyên bố:
“Cả vũ trụ này sẽ chẳng có giá trị bao nhiêu nếu nó không là ngôi nhà dành cho
những người biết sống yêu thương”. Ông đã để lại 3 lời khuyên cho con cái của
ông: một là hãy nhìn lên trời chớ đừng nhìn xuống chân của mình, hai là đừng
bao giờ ngưng làm việc, bởi vì làm việc mang lại ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống.
Điều thứ ba mà tôi cho là quan trọng nhất là: “nếu bạn may mắn đủ để cảm nhận
được tình yêu, hãy nhớ rằng tình yêu vẫn có đó và đừng ném nó đi”.
Không biết có phải vì đã già không, tôi đã cảm nhận được
một chân lý trong cuộc sống: mọi sự đều qua đi, chỉ có tình yêu hay đúng hơn
tình người mới tồn tại mãi mãi. Nhà văn Phạm Tín An Ninh bên Na Uy cũng đã cảm
nhận được điều đó trong truyện tự thuật có tựa đề “Ở Cuối Hai Con Đường”. Trong
những năm tháng tù đày ngoài Bắc, ông đã cảm nhận được tình người qua cách cư xử
nhân đạo của một quản giáo. Chính người quản giáo này cũng đã từng cảm nhận được
tình người khi bị thương và bị bắt làm tù binh trong một trận đánh hồi năm
1972. Cảm kích về tình người nơi người quản giáo, nhà văn Phạm Tín An Ninh đã
tìm cách liên lạc với người cựu quản giáo hầu giúp đỡ và trả ơn. Trước khi chết,
người cựu quản giáo đã gởi cho ông một lá thư. Ở đoạn cuối, người cựu quản giáo
viết: “Tôi biết mình không còn sống bao
lâu nữa. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình
con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế
độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi
khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm
khốn khổ cả nhân gian”.
Trong Hai ngày quốc tế Hạnh phúc và Chống kỳ thị chủng tộc,
tôi đọc đi đọc lại lời cuối của người quản giáo không biết bao nhiêu lần. Tình
yêu hay tình người, như nhà Bác học Stephen Hawking đã nói, vẫn luôn có đó. Có
trong mỗi người. Có cùng với những khuynh hướng thấp hèn nhứt trong mỗi một con
người. Tình người ấy luôn nhắc nhở tôi rằng tôi là một thành phần của nhân loại.
Tôi chỉ thực sự hạnh phúc khi tôi biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Hạnh
phúc của người này cũng bình đẳng với hạnh phúc của người khác. Ít ra, ông tổ của
thứ chủ nghĩa đã gây ra bao nhiêu khổ đau cho nhân loại cũng để lại một câu nói
đáng mang ra nghiền ngẫm “chỉ có thú vật mới quay mặt làm ngơ trước nỗi khổ đau
của đồng loại để chăm sóc cho bộ da riêng của mình”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét