Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2018

“Nghìn năm gương cũ soi kim cổ”



Chu Thập
Thứ Sáu Tuần Thánh 2013

Hôm nay là ngày mà thế giới Kitô giáo gọi là Ngày thứ Sáu Tuần Thánh hay Thứ Sáu Thánh. Trong ngày này, các tín hữu Kitô tưởng niệm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Tại một số nước có truyền thống Kitô giáo lâu đời như Châu Mỹ La Tinh hay Phi Luật Tân ở Á Châu chẳng hạn, người ta thường “diễn lại” cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Có nơi, nhiều người tự nguyện chịu đóng đinh vào thập giá để gọi là thông phần vào sự đau khổ của Chúa hoặc để khấn xin một ơn đặc biệt nào đó. Tại một số giáo xứ ở Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng của các nhà thừa sai Tây Ban Nha, giáo dân đeo khăn tang trên đầu trắng cả nhà thờ.
Riêng tại Roma, mà một số người gọi là “giáo đô”, kể từ thập niên 1980, vào tối Thứ Sáu Tuần Thánh, các đức giáo hoàng thường chủ tọa cuộc “gẫm đàng Thánh Giá” (tưởng niệm con đường thập giá của Giêsu, từ lúc bị mang ra xét xử cho đến khi bị treo trên thập giá trên Núi Sọ), được tổ chức tại Hí trường Colosseo. Di tích lịch sử này gắn liền với những cuộc bách hại đẫm máu mà các tín hữu Kitô tiên khởi đã phải trải qua.
Năm 1985, lần đầu tiên đến Roma, tôi đã ngây ngất trước Đại Hí Trường cổ này. Nước Ý và riêng Roma, có lẽ là nơi có nhiều di tích lịch sử nhất thế giới. Ở đâu cũng có những bức tường đổ nát vẫn còn được giữ nguyên. Du khách có bỏ ra cả tháng trời cũng chưa chắc có thể viếng thăm hết các di tích lịch sử của thành phố được gọi là “muôn thuở” này. Riêng với khách hành hương, nội việc đi thăm viếng các hang toại đạo (catacombs), tức các nghĩa trang dưới đất của người Do Thái được các tín hữu Kitô tiên khởi dùng làm nơi trú ẩn trong thời bị cấm cách, cũng phải mất nhiều ngày.
Nhưng được du khách chiếu cố nhiều nhứt dĩ nhiên vẫn là Hí Trường Cổ Colosseo. Đây là Hí trường lớn nhứt thế giới. Đây cũng là một trong những công trình vĩ đại nhứt trong lịch sử kiến trúc và xây dựng của người La Mã.
Đọc lại lịch sử, tôi thấy Hí Trường Colosseo đã được khởi công xây dựng năm 72 sau công nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian và hoàn thành dưới thời hoàng đế Titus vào năm 80. Có khả năng chứa 50 ngàn chỗ ngồi, Hí Trường Colosseo đã được xử dụng cho các cuộc tranh tài của các võ sĩ giác đấu (gladiators) mà cuốn phim “Gladiator” (võ sĩ giác đấu) do tài tử gạo cội Úc Russell Crowe thủ diễn hồi năm 2000 đã cho chúng ta một ý niệm khá đầy đủ. Vào thời đó, nhiều người nô lệ hay các tử tội trên toàn đế quốc bị bắt phải gia nhập vào đoàn võ sĩ giác đấu. Họ không có một chọn lựa nào khác hơn là phải giết cho bằng được đối thủ của mình. Nhưng cái số phận của những người mà sự chém giết và cái chết đẫm máu trở thành thú tiêu khiển cho khán giả, cuối cùng cũng vẫn là cái chết. Cho nên khi bước ra hí trường, võ sĩ nào cũng phải cung kính sắp mình trước hoàng đế để chào: “Muôn tâu hoàng đế, những kẻ sắp chết xin kính chào hoàng đế” (Ave Caesar, morituri te salutant).
Ngoài các cuộc thi giác đấu, người ta cũng tổ chức tại Hí trường những cuộc săn thú hay xử tử các tội nhân.
Sở dĩ Hí Trường cổ này trở thành nơi cử hành cuộc tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu vào mỗi tối Thứ Sáu Tuần Thánh là vì đây là một trong những nơi diễn ra các cuộc hành quyết các tín hữu Kitô tiên khởi. Lịch sử ghi lại: năm 64 dưới thời bạo chúa Nero (54-68 sau CN),  kinh thành Roma đã bị hỏa hoạn thiêu rụi. Nhiều tín hữu tiên khởi tin rằng chính Nero là người đã ra lệnh đốt thành Roma và xem họ là thủ phạm của vụ hỏa hoạn để có cớ bách hại họ. Từ đó cho đến thế kỷ thứ tư, trước khi hoàng đế Constantino gia nhập Kitô giáo và bãi bỏ lệnh cấm đạo, các tín hữu Kitô đã bị bách hại dã man. Hí Trường Colosseo đã trở thành một trong những nơi hành quyết chính thức. Thay cho các võ sĩ giác đấu, các tín hữu Kitô bị quăng vào đấu trường để làm mồi cho sư tử cắn xé và mua vui cho khán giả.
Số phận của Hí Trường Colosseo gắn liền với số phận của đế quốc La Mã. Thi sĩ Bede vào thế kỷ thứ 8 sau CN đã tiên đoán: “Bao lâu Colosseo còn, Roma còn. Colosseo sụp đổ, Roma cũng sụp đổ theo”. Thật ra trước khi đế quốc Roma hoàn toàn cáo chung, Hí trường Colosseo cũng đã nhiều phen nghiêng ngả và sụp đổ vì các cuộc động đất và hỏa hoạn. Nặng nhứt là trận động đất năm 1349. Nhiều khối đá đã từng được dùng để xây dựng Hí trường Colosseo đã được mang đi để dùng làm vật liệu xây cất một số dinh thự, nhà thờ và bệnh viện tại Roma.
Vào thế kỷ thứ 18, Colosseo đã được Giáo hội công giáo xem như một “linh địa”, nơi các tín hữu tiên khởi đã từng chịu tử đạo. Không riêng Giáo hội công giáo, trong những năm sau Đệ nhị Thế chiến, cộng đồng thế giới cũng xem Colosseo như một biểu tượng trong chiến dịch vận động chống án tử hình. Năm 1948, Ý đại lợi đã bãi bỏ án tử hình. Năm 2000, nhiều cuộc biểu tình chống án tử hình đã được tổ chức tại đây. Kể từ đó, chính quyền thành phố Roma đã cho thay đổi ánh đèn điện được thắp sáng trên Hí trường: mỗi khi trên thế giới có tử tội được cải án thành chung thân hay được tha hoặc có một quốc gia tuyên bố bãi bỏ án tử hình, thì tất cả những ánh đèn trắng trên Hí trường đều được biến thành vàng (x.Wikipedia, Colosseum).
Colosseo vẫn còn đó như một di tích lịch sử. Nó không chỉ nói lên nét huy hoàng, sự phồn hoa của một trong những đế quốc hùng mạnh nhứt trong lịch sử nhân loại, mà còn tố cáo sự độc ác dã man của con người đối với người đồng loại của mình. Đứng trước di tích này cũng như bao nhiêu cung điện, đền đài và di tích lịch sử khác, một du khách Việt Nam như tôi không thể không nhớ lại hai câu thơ nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan (1808-1848): “Nghìn năm gương cũ soi kim cổ, cảnh đấy người đây luống đoạn trường”. Tham vọng, danh vọng, quyền lực thống trị và ngay cả sự độc ác của con người cuối cùng rồi cũng bị chôn vùi trong đóng tro tàn của lịch sử!
Không riêng đối với Hí trường cổ Colosseo, mỗi lần bước vào Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô cũng ở Roma, tôi cũng không khỏi chạnh lòng tưởng nghĩ đến một trong những giai đoạn lịch sử đen tối của Giáo Hội của tôi. Ngôi giáo đường nguy nga đồ sộ ấy không chỉ nói lên óc sáng tạo, nghệ thuật và nhứt là sự đóng góp quảng đại và hy sinh của các tín hữu, mà cũng gợi lên vô số những lạm dụng và khai thác lòng tin của các tín hữu từ phía các nhà lãnh đạo Giáo hội thời đó. Cụ thể là chuyện buôn bán các “ân xá”. Thừa lệnh của các đức giáo hoàng, các nhà thuyết giảng đi khắp nơi để kêu gọi giáo dân đóng góp với lời bảo đảm rằng các linh hồn bị “giam” trong luyện ngục sẽ được “lên thẳng” Thiên Đàng nếu được người thân bỏ tiền ra đóng góp cho công cuộc xây dựng vương cung thánh đường. Số phận của những người quá cố được các nhà lãnh đạo Giáo hội mang ra mặc cả và mua bán chẳng khác nào của cải trần thế. Phải có những người tỉnh thức và can đảm như nhà Cải Cách Tin Lành Martin Luther mới dám lên tiếng tố cáo những lạm dụng có tính cách buôn thánh bán thần ấy. Dù cho tiếng nói của Martin Luther  có dẫn đến sự rạn nứt trong Giáo hội, làm phát sinh những cộng đồng Thiên Chúa giáo mới, tiếng nói ấy cũng đã ít hay nhiều  cảnh tỉnh các nhà lãnh đạo Giáo hội để tiến hành những cuộc cải tổ cần thiết.
Trong những ngày vừa qua, tôi đã cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những cử chỉ đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa của Đức tân giáo hoàng Phanxicô. So sánh sự phục sức, một vài biểu tượng nhỏ mang trên người của Đức Phanxicô với các vị tiền nhiệm của ngài, tôi nghĩ đến một sứ điệp sâu xa hơn: dường như vị giáo hoàng đã từng có cuộc sống đơn sơ, nghèo khó, hòa đồng với những người bình dân này muốn nhắn gởi với toàn thể Giáo hội rằng đã đến lúc cần phải làm một cuộc trở về tận căn với cốt lỏi của Tin Mừng như Chúa Giêsu đã sống và đã rao giảng.
Có lẽ vị giáo hoàng này muốn cho toàn thể Giáo hội, cách riêng các nhà lãnh đạo Giáo hội, nhớ lại rằng Chúa Giêsu đã sống không nhà và đã chết trần truồng trên thập giá. Chúa Giêsu đã không xây dựng hay kêu gọi xây dựng bất cứ một cung điện, một triều đình hay ngay cả một ngôi thánh đường nào. Ngài cũng chẳng để lại một lệnh truyền nào bảo các vị “chủ chiên” trong Giáo hội phải đội mão, cầm gậy (nhứt là gậy vàng) và mặc những phẩm phục uy nghi sang trọng . Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, khi truyền lệnh cho các ông “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày”, có lẽ Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi lập lại bữa ăn ấy, Ngài còn có ý nói đến cử chỉ rửa chân mà Ngài vừa thực hiện. Quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã cư xử như một đầy tớ. Đó là cử chỉ mà Ngài muốn nhấn mạnh hơn cả: hãy làm lại điều đó cho nhau, nghĩa là hãy lấy tình thương mà phục vụ nhau. Không có cử chỉ ấy thì việc cử hành “bữa tiệc” sẽ không có đầy đủ ý nghĩa. Đó là tất cả cốt lõi của Đạo mà Chúa Giêsu muốn để lại. Cái chết trên thập giá của Ngài là đỉnh điểm của cả một cuộc đời phục vụ, hy sinh và yêu thương của Ngài.
Suy nghĩ về cốt lõi của Đạo như được Chúa Giêsu để lại, tôi lại nhận ra một chân lý khác trong cuộc sống con người: điều làm cho con người trở nên bất tử không phải là những kim tự tháp, những công trình xây dựng đồ sộ hay ngay cả cái xác được ướp và cất giữ trong lăng tẩm, mà chính là tình thương. Lăng tẩm, đền đài, dinh thự và ngay cả những ngôi giáo đường nguy nga tráng lệ rốt cục rồi cũng mai một với thời gian. Chỉ có tình thương mới thực sự là kho tàng có thể “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Ngoài ra, mọi thứ trên đời này đều như qua đi như gió thoảng, như mây trôi.
Nghĩ như thế mà thấy mừng cho ông Hugo Chavez, tổng thống Venezuela vừa mới qua đời cách đây vài tuần. Suýt chút nữa thì lại lâm vào cảnh không được “rest in peace” (chữ thường được khắc trên bia mộ, RIP, tạm dịch, hãy nghỉ yên). Cái xác của ông dù sao cũng có “hậu vận” tốt hơn cái xác ướp Lenin bên Nga. Chủ nghĩa cộng sản đã tồn tại ở Đông Âu và Nga không tới một thế kỷ. Một thế kỷ có là gì trong lịch sử nhân loại? Bao nhiêu bức tượng của Lenin trên khắp thế giới cựu cộng sản đã bị kéo sập xuống. Còn cái xác ướp nay đã thành “của nợ” thì người ta không biết phải “giải quyết” như thế nào cho phải đạo đối với một con người. Cùng với cái thứ chủ nghĩa đã sát hại hằng trăm triệu con người, Lenin để lại gì nếu không phải là sự nguyền rủa của hậu thế.
Người Việt chúng ta có câu: “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”. Con trâu, sau khi bị xẻ thịt, còn để lại bộ da cho người ta dùng làm trống. Con người ra đi chỉ để lại tiếng. Tiếng của một đời sống tử tế, gieo rắc tình thương, phục vụ, hy sinh cho người đồng loại thì mãi mãi được nhắc nhớ. Còn tiếng của cả một đời chỉ biết chạy theo quyền lực, gây thù chuốt oán, dĩ nhiên cũng được nhớ đến, nhưng nhớ đến như một nỗi ám ảnh mà thôi.
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm nay, với hình ảnh của một vị giáo hoàng đang cố gắng gột bỏ những phù phiếm đã bám vào khuôn mặt của Giáo hội từ hai ngàn năm nay, tôi nhìn lên hình ảnh trần truồng của Chúa Giêsu trên thập giá. Đã hai ngàn năm qua, mọi đế quốc đều sụp đổ, bao nhiêu cung điện, đền đài, điện thờ và ngay cả nhiều nơi thờ phượng cũng đều qua đi. Duy sức mạnh của thập giá thì vẫn mãi mãi còn đó, bởi vì thập giá chính là Tình Thương.
Người ta thường mừng các ngày lễ như một cách thế để tưởng nhớ lại những gì đã xảy ra trong quá khứ và vẫn còn mang ý nghĩa trong hiện tại. Riêng tôi trong mùa Phục sinh này tôi mừng trong cái nhìn hướng về tương lai. Một tương lai mà mọi người có thể gạt bỏ rào cản của thành kiến, sự khác biệt, luật lệ, nghi lễ, truyền thống hay khuôn khổ để dễ dàng đến với nhau, nghĩ tốt cho nhau và làm mọi sự tốt đẹp cho nhau. Đơn giản hơn, đến với nhau như “người đến với người”.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét