Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2018

Nhà tôi có nuôi một con chó!






Chu Thập 
Xuân 2018

Tôi sinh năm Bính Tuất 1946. Trong gia đình chỉ có cha tôi và tôi cầm tinh con chó. Tôi thừa hưởng một số tính tốt và vô số tật xấu của cha tôi. Còn chuyện vì “tuổi con chó” mà rước vào người những  đặc tính của chó thì tôi chẳng tin chút nào. Có lẽ một phần vì quan hệ giữa tôi và chó không được tốt đẹp lắm.
Tôi đã sống với chó ngay từ thuở nhỏ. Ở nhà quê có nhà nào mà không nuôi chó. Nhà giàu thì nuôi chó “bẹt rê” (berger). Nhà tôi nghèo chỉ nuôi toàn chó cỏ và nuôi chó không phải để “cưng” mà chỉ để chó lo việc nhà. Sành điệu hơn, có nhà nuôi giống chó có “đeo” (móng thừa) ở chân. Đây là giống chó có biệt tài săn chuột.
Nhà tôi chỉ nuôi chó để lo việc nhà. Việc nhà đầu tiên được giao cho chó dĩ nhiên là giữ nhà. Nhà trống trước hở sau phải có chó để canh nhà là chuyện đương nhiên thôi. Kể từ thập niên 1960, khi mấy ông Việt Cộng đêm đêm mò về làng để kiếm ăn, bắt người dẫn lên núi hoặc khủng bố, chó luôn là hệ thống báo động chính xác nhứt.  Việc thứ hai mà giống chó cỏ ở nhà quê tôi lúc nào cũng tỏ ra đắc lực để làm là vệ sinh. Mấy bà chị của tôi, dù đã có chồng, vẫn tiếp tục sống với cha mẹ và hầu như ông chồng nào của các bà chị  của tôi cũng đều phải ở rể một thời gian. Trong nhà lúc nào cũng có con nít. Con nít nhà quê như mấy đứa cháu nhỏ của tôi được chó tận tình chăm sóc. Bất cứ lúc nào, nhứt là buổi sáng, khi mấy bà chị tôi ẵm con ra sân “xi xi” là mấy chú chó bu lại để làm công tác vệ sinh.
Đâu chỉ có canh nhà và làm công tác vệ sinh, chó cỏ còn phải làm một hành động cao cả là “hy sinh mạng sống” để mang lại chút thịt thà cho bữa ăn vốn thường thiếu chất đạm ở nhà quê hoặc giúp cho lễ lạc được thêm phần long trọng. Không biết có phải do một thứ mặc cảm nào đó không, ở quê tôi người ta không ăn thịt chó khi còn mùi thịt chó. Người ta phải tìm cách khử cho hết mùi của nó. Tôi vẫn nhớ mãi cái món “chó đùm”: thịt chó được bằm cho nát, trộn với bún tàu, đậu xanh, đậu phọng và nấm mèo rồi gói trong lá chuối và chưng cách thủy.  Mấy ông tây bà đầm có bị lừa để thưởng thức món “chó đùm” này cũng không thể nào ngửi ra tông tích của chó! Nhưng dù có báng mùi cỡ nào, một khi đã đi vào máu thịt của con người thì nó vẫn ám vào người suốt đời. Tôi tin như thế bởi vì bất cứ ai đã từng nhúng tay vào máu chó hoặc đã ăn thịt chó thì ra đường gặp chó thế nào cũng bị nó sủa. Chó quả đánh hơi rất giỏi. Tôi không ngạc nhiên tại sao người ta dùng chó để ngửi ma túy hoặc ngay cả bệnh ung thư.
Năm 1954, với làn sóng người Bắc di cư vào Nam, chó lại càng sủa bạo hơn. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh mấy ông Bắc Kỳ di cư, mặc quần áo màu chàm, tay cầm một sợi giây thòng lọng, cỡi chiếc xe đạp phía sau có gắn một chiếc cũi. Mấy ông rảo qua các làng quê để truy lùng đám chó cỏ. Quê tôi đua nhau nuôi chó để bán. Các quán nhậu với những bảng hiệu nghe rất “Bắc Kỳ” như “Nó đây rồi”, “Sống trên đời”, “Mộc tồn” hay “Nai đồng quê”...cũng mọc lên như nấm. Cùng với người Bắc di cư, chó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt ẩm thực của Miền Nam.
Sau năm 1975, chó lại càng gắn liền với vận mệnh đất nước hơn. Chó được dùng để làm làn ranh phân chia rõ rệt hai thời kỳ trước và sau khi cộng sản xâm chiếm Miền Nam. “Thời chó đẻ” đã nhường chỗ cho “thời chó chết”. Hiểu theo nghĩa bóng hay nghĩa đen đều đúng cả. Cũng như bao nhiêu người Việt Nam khác, chán cái “thời chó chết”, tôi cũng đã bỏ nước ra đi.
Năm 1982, tưởng đã chôn chặt vào ký ức hình ảnh của chó, sang Pháp tỵ nạn, tôi lại phải “đấu tranh tư tưởng” vì chó. Sở dĩ có cuộc “đấu tranh” như thế là vì ở Paris, thủ đô ánh sáng của “mẫu quốc”, đi đâu tôi cũng thấy chó. Đến Pháp vào giữa mùa thu, mưa lất phất, đường sá ướt nhẹp, tôi lại càng bực tức hơn nữa vì cứ phải đạp cứt chó. Không biết ngày nay thủ đô ngàn năm văn vật của của Pháp có sáng sủa và sạch sẽ hơn không, chớ thời tôi chọn “mẫu quốc” làm quê hương thứ hai, nếu có ai hỏi tôi “Paris có gì lạ không em?”, hình ảnh đầu tiên tôi có về thành phố này vẫn là chó và cứt chó. Hơn 30 năm cuộc đời ở trong nước, tôi xem chó...là chó không hơn không kém, nghĩa là giống thú vật nuôi để giữ nhà, làm công tác vệ sinh và để “thịt”. Đến Paris, trong tôi bỗng nhiên nẩy sinh tâm tình thù hận đối với chó. Tôi ghét chó bởi vì cứ phải đạp cứt chó. Nhưng tôi ghét chó hơn nữa vì nó được cưng chìu và yêu thương còn hơn cả người đồng bào ruột thịt của tôi đang sống dưới “thời chó chết” ở Việt Nam. Trong khi bao nhiêu người Việt Nam không có đủ vải để che thân thì mấy cô cậu chó được mặc quần áo hẳn hoi và nhởn nhơ giữa phố phường Paris. Trong khi ở quê tôi dưới “thời chó chết”, nhiều người vẫn còn đi ngủ với cái bụng trống rỗng thì tại “mẫu quốc”, ngày nào tôi cũng phải nhìn trên màn ảnh truyền hình những màn quảng cáo thực phẩm cho chó. Chó nhà giàu lên ngôi, còn người Việt Nam chúng tôi xuống hàng chó, bảo tôi không bực tức sao được!
Đã vậy, chó ở các nước giàu dường như cũng biết kỳ thị nữa. Tôi nhớ trong một lần chạy bộ, một chú chó “bẹt rê” to tổ chảng của một người chạy đối diện chận đường tôi. Nó không tấn công, mà chỉ gầm gừ không chịu tránh đường. Tôi nói với người chủ rằng tôi có làm gì nó đâu mà nó lại có thái độ thù nghịch như vậy. Người chủ, một anh chàng Úc rặc, tỉnh bơ đùa: “nó kỳ thị đó!”.
Đã gần 40 năm rồi, tôi không còn đụng đến miếng thịt chó và dĩ nhiên, tôi cũng không thể tưởng tượng nổi một ngày nào đó, ngay cả ở Việt Nam, tôi sẽ vào một quán nhậu nào đó để ngửi lại mùi thịt chó. Nhưng có lẽ cái mùi thịt chó đã ăn vào da thịt tôi tự thuở nào cho nên chó tây đã ngửi được và tỏ thái độ kỳ thị.
Có lẽ cũng như nhiều người tỵ nạn Việt Nam khác, tôi đã bị kỳ thị cách này hay cách khác. Nhưng tôi luôn xem kỳ thị như một thách đố trong tiến trình hội nhập vào xã hội Tây phương. Nhập gia tùy tục. Sống ở xứ người, không đánh mất bản sắc của mình, nhưng cũng phải cố gắng thích nghi với văn hóa của họ và bước đầu của thích nghi là phải chấp nhận và tôn trọng văn hóa của người ta. Tôi luôn tự nhủ như thế. Lúc chân ướt chân ráo mới đến xứ người, tôi cảm thấy khó chịu vì một số  thói tục của họ. Ngày đầu tiên đặt chân xuống các trạm Metro (xe lửa ngầm) ở Paris, thấy người ta ôm nhau hôn hít trước mặt mình, tôi thấy kỳ cục quá. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, tôi thấy chẳng có gì phải khó chịu và thắc mắc nữa. Chuyện người ta cưng chó cũng vậy thôi. Thoạt tiên tôi thấy “ngứa gan” trước cái cảnh người ta ôm hôn và nựng con chó. Bây giờ tôi xem đó là chuyện thường tình.
Càng lúc tôi càng hiểu và cảm thông được tình cảm người tây phương dành cho thú cưng, nhứt là chó. Tôi thích xem chương trình “The Supervet” của bác sĩ thú y Noel Fitzpatrick được chiếu trên đài SBS. Tôi vẫn nhớ mãi cảnh một cặp vợ chồng già đưa con chó cưng của mình đến trung tâm giải phẫu của Bác sĩ Fitzpatrick. Hai chân trước của con chó bị cong đến độ không thể cử động được. Bác sĩ Fitzpatrick hỏi ông bà có phải đây là con chó mồ côi (rescue) được ông bà đem về nuôi không. Người vợ gật đầu giải thích: không phải chúng tôi “cứu vớt” nó mà chính nó “cứu vớt” chúng tôi! Sau khi chẩn đoán và chụp hình, viên bác sĩ thú y cho biết cuộc giải phẫu rất tốn kém. Bà nhìn ông cầu cứu và ông trả lời không do dự: bao nhiêu chúng tôi cũng sẵn sàng chịu! Không rõ bao nhiêu, nhưng chắc chắn phí tổn của  cuộc giải phẫu có khi còn cao hơn cả số tiền phải bỏ ra để chữa bệnh cho một người.
Tôi hiểu được tại sao người ta cưng và thương chó như thế. Tôi cũng hiểu được tại sao có khi người ta yêu thương và chăm lo cho chó còn hơn cả con người. Kết quả của một cuộc thăm dò tại Hoa Kỳ khiến tôi phải sửng sốt. Những người được thăm dò ý kiến bị đặt trước một câu hỏi: nếu xảy ra trường hợp  con chó cưng của bạn và một người khác cùng bị xe đụng sắp chết, bạn sẽ cứu ai? Kết quả cuộc thăm dò cho thấy có đến một phần ba những người được hỏi ý kiến đều đặt ưu tiên vào việc cứu con chó cưng của mình (x.https://www.psychologytoday.com/blog/canine-corner/201711/why-people-sometimes-care-more-about-dogs-humans).
Theo các chuyên gia tâm lý, hầu như mọi gia đình Tây phương  có nuôi chó cưng  đều xem nó như một thành phần thân thiết của gia đình. Giáo sư John Archer, thuộc trường Đại học Central Lancashire, Anh quốc, đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về mối quan hệ giữa chó và người theo quan điểm tiến hóa. Cuộc nghiên cứu của Giáo sư Archer cho thấy khoảng 40 phần trăm những người nuôi chó cưng xem chó như một phần tử của gia đình.
Chó là loài thú rất nhạy cảm. Nó có khả năng dự đoán điều mà chủ nó sẽ làm, dù là chuẩn bị thức ăn cho nó hay đưa nó đi chơi. Các cuộc thí nghiệm cho thấy chó rất bén nhạy trong việc đọc được ngôn ngữ thân xác của con người. Chó có thể hiểu được ý chủ xuyên qua ánh mắt hay một cử chỉ nhỏ của họ. Không những đọc được cảm xúc của chủ, chó còn biết bày tỏ sự “hối hận” nếu người chủ tỏ ra bực bội, khó chịu.
Sở dĩ giữa chó và người có một mối quan hệ đặc biệt như thế là vì cho là giống thú vật đầu tiên đã được con người thuần hóa từ hơn một trăm ngàn năm qua. Chó là bạn đồng hành trong sinh hoạt săn bắn của chủ. Chó luôn có mặt bên cạnh con người như một hệ thống báo động nhờ đó con người có thể tránh được hiểm nguy. Chó canh chừng trẻ con và cũng là bạn chơi của chúng. Đối lại, con người cung cấp thức ăn cho chó và bảo đảm an toàn cho chúng. Tóm lại, con người đã thuần hóa chó, nhưng chính chó cũng đã thuần hóa con người, nghĩa là cảm hóa con người để biết đối xử “nhân đạo” hơn với chó và với súc vật nói chung.
Đó là kinh nghiệm của chính tôi. Một cách nào đó, tôi đã được chó thuần hóa và cảm hóa.  Lúc còn ở trong nước và ngay cả một năm trước đây, tôi xem  chó như một loài thú chỉ để được sở hữu và nuôi vì một mục đích hoàn toàn vụ lợi. Nhưng cách đây vài tháng, chó đã làm thay đổi cách suy nghĩ của tôi và quan hệ giữa tôi và chó cũng thay đổi. Tất cả diễn ra một cách bất ngờ. Cách đây vài tháng, một người cháu nuôi của tôi mua lại một con chó của một người Đại Hàn. Ông này sợ con chó lẻ loi cho nên tặng thêm cho người cháu của tôi một con khác. Dư một con, người cháu nuôi mới nhường lại cho tôi một con. Lúc đầu tôi lưỡng lự và nghĩ bụng: đã không thích chó thì rước của nợ về nhà để làm gì? Nhưng trời xui đất khiến, tôi muốn thử thời vận một lần xem sao. Kể từ đó, sự hiện diện của chó và tiếng chó sủa làm thay đổi hẳn bộ mặt của ngôi nhà. Bài ca trẻ thơ cách đây hơn 60 năm vọng lại: “nhà em có nuôi một con chó. Trông nó to như con bò. Sáng nó kêu gấu gấu gấu. Trưa nó kêu gâu gâu gâu. Tối nó kêu gầu gầu gầu...”
Cũng may, con Trumpy nhà tôi không phải là loại sủa nhiều và sủa sảng. Nó chỉ sủa khi có đám gà lôi rừng (bush turkey) xâm nhập gia cư bất hợp pháp hoặc có cô cậu mèo hàng xóm nào đó léng phéng trước cửa nhà. Thông thường, nó chỉ ứ ứ bằng thứ ngôn ngữ mà chỉ sau một vài tuần lễ tôi và nhà tôi hiểu được một cách dễ dàng. Nó muốn chơi, nó muốn được ăn, nó muốn được dẫn đi dạo mỗi buổi chiều hay được vuốt ve...lúc nào chúng tôi cũng hiểu được ngôn ngữ của nó. Và dĩ nhiên, nó cũng hiểu được tiếng nói, ánh mắt và cử chỉ của chúng tôi. Nó thuộc thời khóa biểu của chúng tôi chỉ trong vòng vài ngày. Không được vào trong nhà nhưng chỉ cần lắng nghe và nhớ thói quen của chúng tôi, nó có thể biết được chúng tôi đang ở đâu và làm gì. Tựu trung, giữa nó và chúng tôi đã có một sự giao cảm lạ lùng. Tôi hiểu được tại sao người ta thương con chó như vậy: có thể nói chó lắm khi còn nhớ mọi thói quen và sinh hoạt của chủ hơn người ở chung nhà.
Nhưng với riêng tôi, con chó đã dạy tôi nhiều bài học. Chó luôn tỏ ra biết ơn và trung thành. Tuổi con chó như tôi không đương nhiên là người luôn biết ơn và trọng chữ tín. Năm 2018 không là năm “đáo tuế” và nhưng cứ mỗi khi Năm Chó trở lại, tôi luôn được gợi nhớ để học và trau dồi 2 đức tính căn bản trong nhân cách là lòng biết ơn và sự trung tín. Thiếu 2 điều đó, con người khó có thể sống cho ra người tử tế được. Con Trumpy nhà tôi luôn nhắc nhở tôi điều đó.
Bên cạnh 2 đức tính ấy, sự thính tai và thính mũi của con chó nhà tôi cũng gợi lên cho tôi một cách cư xử mà tôi cho là rất quan trọng trong cuộc sống: đó là sự nhạy cảm. Nhạy cảm để không tỏ ra dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Nhạy cảm để biết cảm thông với người khác.
Tựu trung, dù là chó nhưng con Trumpy nhà tôi lại dạy cho tôi nhiều bài học làm người.
Ở mỗi dịp đầu năm, tôi có thói quen làm một số quyết tâm. Thôi thì đầu năm nay, năm con chó, xin được quyết tâm trau dồi lòng biết ơn, chữ tín và sự cảm thông vậy.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét