Chu Thập
Xuân 2018
Tôi đã sống với chó ngay từ thuở nhỏ. Ở nhà quê có nhà
nào mà không nuôi chó. Nhà giàu thì nuôi chó “bẹt rê” (berger). Nhà tôi nghèo chỉ nuôi toàn chó cỏ và nuôi chó không phải để
“cưng” mà chỉ để chó lo việc nhà. Sành điệu hơn, có nhà nuôi giống chó có “đeo”
(móng thừa) ở chân. Đây là giống chó có biệt tài săn chuột.
Nhà tôi chỉ nuôi chó để lo việc nhà. Việc nhà đầu tiên được
giao cho chó dĩ nhiên là giữ nhà. Nhà trống trước hở sau phải có chó để canh
nhà là chuyện đương nhiên thôi. Kể từ thập niên 1960, khi mấy ông Việt Cộng đêm
đêm mò về làng để kiếm ăn, bắt người dẫn lên núi hoặc khủng bố, chó luôn là hệ
thống báo động chính xác nhứt. Việc thứ
hai mà giống chó cỏ ở nhà quê tôi lúc nào cũng tỏ ra đắc lực để làm là vệ sinh.
Mấy bà chị của tôi, dù đã có chồng, vẫn tiếp tục sống với cha mẹ và hầu như ông
chồng nào của các bà chị của tôi cũng đều
phải ở rể một thời gian. Trong nhà lúc nào cũng có con nít. Con nít nhà quê như
mấy đứa cháu nhỏ của tôi được chó tận tình chăm sóc. Bất cứ lúc nào, nhứt là buổi
sáng, khi mấy bà chị tôi ẵm con ra sân “xi xi” là mấy chú chó bu lại để làm
công tác vệ sinh.
Đâu chỉ có canh nhà và làm công tác vệ sinh, chó cỏ còn
phải làm một hành động cao cả là “hy sinh mạng sống” để mang lại chút thịt thà cho
bữa ăn vốn thường thiếu chất đạm ở nhà quê hoặc giúp cho lễ lạc được thêm phần
long trọng. Không biết có phải do một thứ mặc cảm nào đó không, ở quê tôi người
ta không ăn thịt chó khi còn mùi thịt chó. Người ta phải tìm cách khử cho hết
mùi của nó. Tôi vẫn nhớ mãi cái món “chó đùm”: thịt chó được bằm cho nát, trộn
với bún tàu, đậu xanh, đậu phọng và nấm mèo rồi gói trong lá chuối và chưng
cách thủy. Mấy ông tây bà đầm có bị lừa
để thưởng thức món “chó đùm” này cũng không thể nào ngửi ra tông tích của chó!
Nhưng dù có báng mùi cỡ nào, một khi đã đi vào máu thịt của con người thì nó vẫn
ám vào người suốt đời. Tôi tin như thế bởi vì bất cứ ai đã từng nhúng tay vào
máu chó hoặc đã ăn thịt chó thì ra đường gặp chó thế nào cũng bị nó sủa. Chó quả
đánh hơi rất giỏi. Tôi không ngạc nhiên tại sao người ta dùng chó để ngửi ma
túy hoặc ngay cả bệnh ung thư.
Năm 1954, với làn sóng người Bắc di cư vào Nam, chó lại
càng sủa bạo hơn. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh mấy ông Bắc Kỳ di cư, mặc quần áo
màu chàm, tay cầm một sợi giây thòng lọng, cỡi chiếc xe đạp phía sau có gắn một
chiếc cũi. Mấy ông rảo qua các làng quê để truy lùng đám chó cỏ. Quê tôi đua
nhau nuôi chó để bán. Các quán nhậu với những bảng hiệu nghe rất “Bắc Kỳ” như
“Nó đây rồi”, “Sống trên đời”, “Mộc tồn” hay “Nai đồng quê”...cũng mọc lên như
nấm. Cùng với người Bắc di cư, chó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt ẩm thực của
Miền Nam.
Sau năm 1975, chó lại càng gắn liền với vận mệnh đất nước
hơn. Chó được dùng để làm làn ranh phân chia rõ rệt hai thời kỳ trước và sau
khi cộng sản xâm chiếm Miền Nam. “Thời chó đẻ” đã nhường chỗ cho “thời chó chết”.
Hiểu theo nghĩa bóng hay nghĩa đen đều đúng cả. Cũng như bao nhiêu người Việt
Nam khác, chán cái “thời chó chết”, tôi cũng đã bỏ nước ra đi.
Năm 1982, tưởng đã chôn chặt vào ký ức hình ảnh của chó,
sang Pháp tỵ nạn, tôi lại phải “đấu tranh tư tưởng” vì chó. Sở dĩ có cuộc “đấu
tranh” như thế là vì ở Paris, thủ đô ánh sáng của “mẫu quốc”, đi đâu tôi cũng
thấy chó. Đến Pháp vào giữa mùa thu, mưa lất phất, đường sá ướt nhẹp, tôi lại
càng bực tức hơn nữa vì cứ phải đạp cứt chó. Không biết ngày nay thủ đô ngàn
năm văn vật của của Pháp có sáng sủa và sạch sẽ hơn không, chớ thời tôi chọn “mẫu
quốc” làm quê hương thứ hai, nếu có ai hỏi tôi “Paris có gì lạ không em?”, hình
ảnh đầu tiên tôi có về thành phố này vẫn là chó và cứt chó. Hơn 30 năm cuộc đời
ở trong nước, tôi xem chó...là chó không hơn không kém, nghĩa là giống thú vật
nuôi để giữ nhà, làm công tác vệ sinh và để “thịt”. Đến Paris, trong tôi bỗng
nhiên nẩy sinh tâm tình thù hận đối với chó. Tôi ghét chó bởi vì cứ phải đạp cứt
chó. Nhưng tôi ghét chó hơn nữa vì nó được cưng chìu và yêu thương còn hơn cả
người đồng bào ruột thịt của tôi đang sống dưới “thời chó chết” ở Việt Nam.
Trong khi bao nhiêu người Việt Nam không có đủ vải để che thân thì mấy cô cậu
chó được mặc quần áo hẳn hoi và nhởn nhơ giữa phố phường Paris. Trong khi ở quê
tôi dưới “thời chó chết”, nhiều người vẫn còn đi ngủ với cái bụng trống rỗng
thì tại “mẫu quốc”, ngày nào tôi cũng phải nhìn trên màn ảnh truyền hình những
màn quảng cáo thực phẩm cho chó. Chó nhà giàu lên ngôi, còn người Việt Nam
chúng tôi xuống hàng chó, bảo tôi không bực tức sao được!
Đã vậy, chó ở các nước giàu dường như cũng biết kỳ thị nữa.
Tôi nhớ trong một lần chạy bộ, một chú chó “bẹt rê” to tổ chảng của một người
chạy đối diện chận đường tôi. Nó không tấn công, mà chỉ gầm gừ không chịu tránh
đường. Tôi nói với người chủ rằng tôi có làm gì nó đâu mà nó lại có thái độ thù
nghịch như vậy. Người chủ, một anh chàng Úc rặc, tỉnh bơ đùa: “nó kỳ thị đó!”.
Đã gần 40 năm rồi, tôi không còn đụng đến miếng thịt chó
và dĩ nhiên, tôi cũng không thể tưởng tượng nổi một ngày nào đó, ngay cả ở Việt
Nam, tôi sẽ vào một quán nhậu nào đó để ngửi lại mùi thịt chó. Nhưng có lẽ cái
mùi thịt chó đã ăn vào da thịt tôi tự thuở nào cho nên chó tây đã ngửi được và
tỏ thái độ kỳ thị.
Có lẽ cũng như nhiều người tỵ nạn Việt Nam khác, tôi đã bị
kỳ thị cách này hay cách khác. Nhưng tôi luôn xem kỳ thị như một thách đố trong
tiến trình hội nhập vào xã hội Tây phương. Nhập gia tùy tục. Sống ở xứ người,
không đánh mất bản sắc của mình, nhưng cũng phải cố gắng thích nghi với văn hóa
của họ và bước đầu của thích nghi là phải chấp nhận và tôn trọng văn hóa của
người ta. Tôi luôn tự nhủ như thế. Lúc chân ướt chân ráo mới đến xứ người, tôi
cảm thấy khó chịu vì một số thói tục của
họ. Ngày đầu tiên đặt chân xuống các trạm Metro (xe lửa ngầm) ở Paris, thấy người
ta ôm nhau hôn hít trước mặt mình, tôi thấy kỳ cục quá. Nhưng chỉ một thời gian
ngắn, tôi thấy chẳng có gì phải khó chịu và thắc mắc nữa. Chuyện người ta cưng
chó cũng vậy thôi. Thoạt tiên tôi thấy “ngứa gan” trước cái cảnh người ta ôm
hôn và nựng con chó. Bây giờ tôi xem đó là chuyện thường tình.
Càng lúc tôi càng hiểu và cảm thông được tình cảm người
tây phương dành cho thú cưng, nhứt là chó. Tôi thích xem chương trình “The
Supervet” của bác sĩ thú y Noel Fitzpatrick được chiếu trên đài SBS. Tôi vẫn nhớ
mãi cảnh một cặp vợ chồng già đưa con chó cưng của mình đến trung tâm giải phẫu
của Bác sĩ Fitzpatrick. Hai chân trước của con chó bị cong đến độ không thể cử
động được. Bác sĩ Fitzpatrick hỏi ông bà có phải đây là con chó mồ côi (rescue)
được ông bà đem về nuôi không. Người vợ gật đầu giải thích: không phải chúng
tôi “cứu vớt” nó mà chính nó “cứu vớt” chúng tôi! Sau khi chẩn đoán và chụp
hình, viên bác sĩ thú y cho biết cuộc giải phẫu rất tốn kém. Bà nhìn ông cầu cứu
và ông trả lời không do dự: bao nhiêu chúng tôi cũng sẵn sàng chịu! Không rõ
bao nhiêu, nhưng chắc chắn phí tổn của
cuộc giải phẫu có khi còn cao hơn cả số tiền phải bỏ ra để chữa bệnh cho
một người.
Tôi hiểu được tại sao người ta cưng và thương chó như thế.
Tôi cũng hiểu được tại sao có khi người ta yêu thương và chăm lo cho chó còn
hơn cả con người. Kết quả của một cuộc thăm dò tại Hoa Kỳ khiến tôi phải sửng sốt.
Những người được thăm dò ý kiến bị đặt trước một câu hỏi: nếu xảy ra trường hợp con chó cưng của bạn và một người khác cùng bị
xe đụng sắp chết, bạn sẽ cứu ai? Kết quả cuộc thăm dò cho thấy có đến một phần
ba những người được hỏi ý kiến đều đặt ưu tiên vào việc cứu con chó cưng của
mình (x.https://www.psychologytoday.com/blog/canine-corner/201711/why-people-sometimes-care-more-about-dogs-humans).
Theo các chuyên gia tâm lý, hầu như mọi gia đình Tây
phương có nuôi chó cưng đều xem nó như một thành phần thân thiết của
gia đình. Giáo sư John Archer, thuộc trường Đại học Central Lancashire, Anh quốc,
đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về mối quan hệ giữa chó và người theo quan điểm
tiến hóa. Cuộc nghiên cứu của Giáo sư Archer cho thấy khoảng 40 phần trăm những
người nuôi chó cưng xem chó như một phần tử của gia đình.
Chó là loài thú rất nhạy cảm. Nó có khả năng dự đoán điều
mà chủ nó sẽ làm, dù là chuẩn bị thức ăn cho nó hay đưa nó đi chơi. Các cuộc
thí nghiệm cho thấy chó rất bén nhạy trong việc đọc được ngôn ngữ thân xác của
con người. Chó có thể hiểu được ý chủ xuyên qua ánh mắt hay một cử chỉ nhỏ của
họ. Không những đọc được cảm xúc của chủ, chó còn biết bày tỏ sự “hối hận” nếu
người chủ tỏ ra bực bội, khó chịu.
Sở dĩ giữa chó và người có một mối quan hệ đặc biệt như
thế là vì cho là giống thú vật đầu tiên đã được con người thuần hóa từ hơn một
trăm ngàn năm qua. Chó là bạn đồng hành trong sinh hoạt săn bắn của chủ. Chó
luôn có mặt bên cạnh con người như một hệ thống báo động nhờ đó con người có thể
tránh được hiểm nguy. Chó canh chừng trẻ con và cũng là bạn chơi của chúng. Đối
lại, con người cung cấp thức ăn cho chó và bảo đảm an toàn cho chúng. Tóm lại,
con người đã thuần hóa chó, nhưng chính chó cũng đã thuần hóa con người, nghĩa
là cảm hóa con người để biết đối xử “nhân đạo” hơn với chó và với súc vật nói
chung.
Đó là kinh nghiệm của chính tôi. Một cách nào đó, tôi đã
được chó thuần hóa và cảm hóa. Lúc còn ở
trong nước và ngay cả một năm trước đây, tôi xem chó như một loài thú chỉ để được sở hữu và
nuôi vì một mục đích hoàn toàn vụ lợi. Nhưng cách đây vài tháng, chó đã làm
thay đổi cách suy nghĩ của tôi và quan hệ giữa tôi và chó cũng thay đổi. Tất cả
diễn ra một cách bất ngờ. Cách đây vài tháng, một người cháu nuôi của tôi mua lại
một con chó của một người Đại Hàn. Ông này sợ con chó lẻ loi cho nên tặng thêm
cho người cháu của tôi một con khác. Dư một con, người cháu nuôi mới nhường lại
cho tôi một con. Lúc đầu tôi lưỡng lự và nghĩ bụng: đã không thích chó thì rước
của nợ về nhà để làm gì? Nhưng trời xui đất khiến, tôi muốn thử thời vận một lần
xem sao. Kể từ đó, sự hiện diện của chó và tiếng chó sủa làm thay đổi hẳn bộ mặt
của ngôi nhà. Bài ca trẻ thơ cách đây hơn 60 năm vọng lại: “nhà em có nuôi một
con chó. Trông nó to như con bò. Sáng nó kêu gấu gấu gấu. Trưa nó kêu gâu gâu
gâu. Tối nó kêu gầu gầu gầu...”
Cũng may, con Trumpy nhà tôi không phải là loại sủa nhiều
và sủa sảng. Nó chỉ sủa khi có đám gà lôi rừng (bush turkey) xâm nhập gia cư bất
hợp pháp hoặc có cô cậu mèo hàng xóm nào đó léng phéng trước cửa nhà. Thông thường,
nó chỉ ứ ứ bằng thứ ngôn ngữ mà chỉ sau một vài tuần lễ tôi và nhà tôi hiểu được
một cách dễ dàng. Nó muốn chơi, nó muốn được ăn, nó muốn được dẫn đi dạo mỗi buổi
chiều hay được vuốt ve...lúc nào chúng tôi cũng hiểu được ngôn ngữ của nó. Và
dĩ nhiên, nó cũng hiểu được tiếng nói, ánh mắt và cử chỉ của chúng tôi. Nó thuộc
thời khóa biểu của chúng tôi chỉ trong vòng vài ngày. Không được vào trong nhà
nhưng chỉ cần lắng nghe và nhớ thói quen của chúng tôi, nó có thể biết được
chúng tôi đang ở đâu và làm gì. Tựu trung, giữa nó và chúng tôi đã có một sự
giao cảm lạ lùng. Tôi hiểu được tại sao người ta thương con chó như vậy: có thể
nói chó lắm khi còn nhớ mọi thói quen và sinh hoạt của chủ hơn người ở chung
nhà.
Nhưng với riêng tôi, con chó đã dạy tôi nhiều bài học.
Chó luôn tỏ ra biết ơn và trung thành. Tuổi con chó như tôi không đương nhiên
là người luôn biết ơn và trọng chữ tín. Năm 2018 không là năm “đáo tuế” và nhưng
cứ mỗi khi Năm Chó trở lại, tôi luôn được gợi nhớ để học và trau dồi 2 đức tính
căn bản trong nhân cách là lòng biết ơn và sự trung tín. Thiếu 2 điều đó, con
người khó có thể sống cho ra người tử tế được. Con Trumpy nhà tôi luôn nhắc nhở
tôi điều đó.
Bên cạnh 2 đức tính ấy, sự thính tai và thính mũi của con
chó nhà tôi cũng gợi lên cho tôi một cách cư xử mà tôi cho là rất quan trọng
trong cuộc sống: đó là sự nhạy cảm. Nhạy cảm để không tỏ ra dửng dưng trước nỗi
khổ của người khác. Nhạy cảm để biết cảm thông với người khác.
Tựu trung, dù là chó nhưng con Trumpy nhà tôi lại dạy cho
tôi nhiều bài học làm người.
Ở mỗi dịp đầu năm, tôi có thói quen làm một số quyết tâm.
Thôi thì đầu năm nay, năm con chó, xin được quyết tâm trau dồi lòng biết ơn, chữ
tín và sự cảm thông vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét