Chu Thập
26/01/18
Cách đây mấy hôm, theo dõi chương trình đố vui có thưởng
“Who wants to be a millionaire” trên
Đài số 9, tôi tiếc hùi hụi cho một cụ già 80 tuổi tham gia cuộc thi đấu. 80 tuổi
mà đầu óc vẫn còn minh mẫn, trí nhớ vẫn còn sắc bén. Câu hỏi nào cụ cũng trả lời
vanh vách. Nhưng để bỏ túi phần thưởng 100.000 Úc kim, cụ lại ú ớ trước câu hỏi
cuối cùng: Ukraine giành lại độc lập năm nào? Thay vì năm 1991 là năm Liên Xô
tan rã, cụ lại bấm vào năm 1989 là năm bức tường Bá Linh sụp đổ! Tôi tiếc thầm:
giá cụ “thuộc” lịch sử thêm một chút nữa thì cụ đã kiếm được một số tiền lớn rồi!
Tôi không hiểu sao thời tôi còn ở bậc trung học, sử địa vẫn
bị xem là một môn phụ. Nó cũng ớn như món cơm nếp “chủ nghĩa Marxit - Leninit ” thời xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay: thày vừa ngủ vừa đọc bài, học sinh vừa ngáp vừa ghi!
Ngày nay, ở tuổi già, mỗi khi nhìn lại và điểm qua những
điều mình còn hối tiếc, tôi mới thấy rằng những kiến thức quan trọng cần học hỏi
và trau dồi lúc còn trẻ lẽ ra phải là những bài học về sử địa. Tôi thấy mình
còn dốt về rất nhiều thứ. Nhưng tệ nhứt vẫn là những bài học về lịch sử. Sở dĩ
tôi còn mang nặng mặc cảm ngu dốt về lịch sử là bởi vì ai đó đã nói một câu
đáng mang ra tụng niệm và suy gẫm suốt cả
một cuộc đời: “Những ai không chịu học lịch
sử sẽ bị kết án lập lại lịch sử”.
Tìm hiểu ý nghĩa của câu nói trên đây, tôi mới biết rằng
tác giả của câu nói chính là văn sĩ và triết gia George Santayana (1863-1952).
Chào đời tại Tây Ban Nha, nhưng ông lớn lên và theo học tại Hoa Kỳ. Năm 48 tuổi,
sau một thời gian làm giáo sư triết học tại Đại học Havard, ông rời bỏ Hoa Kỳ
và quay về Âu Châu để sống cho đến cuối đời. Về bài học lịch sử, câu nói nguyên thủy
được gán cho ông chính là: “Ai không thể
nhớ quá khứ sẽ bị kết án lập lại quá khứ”. Với giọng trào phúng hơn, văn
hào Mỹ Mark Twain (1835-1910) nói: “Lịch sử không lập lại. Nó chỉ “niêm vận” thôi”
(History doesn’t repeat itself, but it does rhyme). Có lẽ văn hào này muốn nói
rằng chuyện đang xảy ra trong hiện tại cũng na ná giống như đã từng xảy ra
trong quá khứ.
Theo Triết gia Santayana, lịch sử lập lại. Chỉ cần nhìn lại lịch sử Âu Châu
trong thời hiện đại cũng đủ để thấy rằng lịch sử thường lập lại. Các cuộc cách
mạng tại Pháp và Nga, tưởng đã chấm dứt các chế độ độc tài, lại dẫn đến những
chế độ độc tài còn tệ hại hơn: Nã Phá Luân của Pháp hay Stalin của Nga cũng chỉ
là bản sao tồi tệ của những trang lịch sử mà người ta đã muốn xóa bỏ. Người dân
ở đâu cũng dễ bị dụ dỗ bởi các chính trị gia dân túy. Hitler đã được dân chúng
Đức đưa lên đỉnh cao quyền lực và hiện nguyên hình là một quái vật bằng chính
lá phiếu của họ.
Không nhớ quá khứ, nhứt là quá khứ của chính mình hay chối
bỏ lịch sử, con người thường lập lại những lỗi lầm của quá khứ. Chính sách di
dân dưới thời đương kim tổng thống Mỹ Donald Trump có thể là một ví dụ điển
hình về việc chối bỏ quá khứ. Trong nhiều giai đoạn, Hoa Kỳ đã từng bế quan tỏa
cảng và chống di dân. Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta thấy có một ông tổng thống
kỳ thị chủng tộc và chống di dân cho bằng Tổng thống Trump. Giá như ông ý thức
rằng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, như tên gọi của nước này có thể gợi lên, là một quốc
gia được hình thành và xây dựng bằng sự đóng góp của nhiều tầng lớp di dân thuộc
đủ mọi màu da, kể cả và nhứt là người Mỹ gốc Phi Châu, có lẽ ông đã không đưa
ra một chính sách di dân đầy mầu sắc kỳ thị như hiện nay. Giá như lúc nào ông cũng nhớ cho rằng ông nội của
ông, ông Frederic Trump (1869-1918) là người đã sinh ra tại Đức, năm 16 tuổi di
dân sang Hoa Kỳ và khởi công lập nghiệp bằng nghề hớt tóc, về quê hương cưới vợ
và sau đó đưa gia đình qua Mỹ... thì có lẽ ông sẽ tỏ ra biết cảm thông hơn đối
với 800.000 người thường được mệnh danh là “Dreamers”, tức những người đã được
cha mẹ đưa vào Mỹ lúc còn nhỏ, nhưng chưa bao giờ được chính thức nhìn nhận như
người Mỹ, mặc dù họ đang đóng góp rất nhiều cho nước Mỹ, kể cả xương máu khi
chiến đấu trong quân đội Mỹ. Số phận của những người này hiện đang được đưa ra
như một món hàng để mặc cả giữa một ông tổng thống chống di dân và đảng dân chủ.
Giá như Tổng thống Trump nhớ cho rằng ông nội của ông đã tìm đến “miền đất hứa
Hoa Kỳ” khi chỉ mới 16 tuổi thì biết đâu trái tim của ông đã chẳng mềm lại đôi
chút để biết xót thương hơn 600.000 người El Salvador, tuy đã ở Mỹ từ rất nhiều
năm qua, vẫn cứ phải ngày đêm nơm nớp lo sợ không biết sẽ bị trục xuất lúc nào.
Thái độ chối bỏ quá khứ của Tổng thống Trump, như triết gia Santayana đã tiên
đoán, đã khiến cho lịch sử lập lại: nếu như người Phi Châu đã từng bị người Mỹ
da trắng xem như súc vật hay thương phẩm để đổi chác, thì ngày nay từ chính cửa
miệng của ông Trump, người dân các nước Phi Châu đã bị khinh miệt như “hố xí” (shithole!)!
Mỗi lần nghĩ đến câu nói của ông: “truyền thông là kẻ thù của nhân dân Mỹ”, tôi
không thể không liên tưởng đến các chế độ độc tài, nhứt là độc tài cộng sản.
Không biết Tổng thống Trump có phải là đồ đệ của Stalin không, nhưng chính đồ tể
này đã từng nói rằng “truyền thông là kẻ thù của nhân dân”. Lịch sử dường như
đang tái diễn trong một quốc gia được xem là có nền dân chủ kỳ cựu nhứt thế giới!
Nhìn qua Mỹ để rồi nghĩ đến chuyện của Úc Đại Lợi, quê
hương thứ hai của tôi. Cũng chẳng khác Mỹ bao nhiêu, Úc Đại Lợi thiết yếu là một
đất nước của người di dân. Lịch sử của đất nước này là lịch sử của di dân. Mặc
dù khi thi vào quốc tịch, tôi đã không hề bị khảo hạch bằng bất cứ câu hỏi nào
về lịch sử của quê hương mới của mình, nhưng là một công dân, tôi thấy mình có
bổn phận phải học hỏi về lịch sử của đất nước mình. Nhất là về ngày hôm nay, 26
tháng Giêng, Quốc khánh của Úc Đại Lợi. Năm nào tôi cũng phải ôn lại bài học lịch
sử về ngày lễ nghỉ đã và đang gây nhiều tranh cãi này.
Cũng như rất nhiều người Úc, tôi biết rằng ngày quốc
khánh “Australia Day” thoạt tiên là ngày kỷ niệm khởi đầu cuộc định cư của người
Anh tại Sydney Cove năm 1788, tức cách đây đúng 230 năm. Đó là ngày những chuyến
thuyền chở các tù nhân và đợt di dân người Anh đầu tiên cập bến vào Sydney. Tên
gọi “Australia Day” chắc chắn đã phản ảnh và hình thành cách hiểu cũng như thái
độ của phần lớn người dân Úc đối với quá khứ và hiện tại của nước Úc. Và dĩ
nhiên nó cũng gợi lên nhiều điều khác nhau với nhiều người khác nhau vào những
thời điểm khác nhau trong lịch sử Úc Đại Lợi.
Với một số người Úc, Australia Day là một cơ hội tuyệt vời
để ăn mừng về tất cả những thành tựu của Úc Đại Lợi ngày nay. Cựu Thủ tướng
Tony Abbott có thể được xem như đại diện của những người Úc này. Trong một cuộc
nói chuyện mới đây trên đài 2GB, ông Abbott khẳng định rằng “điều đã xảy ra
trong ngày 26 tháng Giêng năm 1788 là một điều tốt đẹp cho mọi người, kể cả người
thổ dân. Đây là một điều tốt đẹp bởi vì nó đã mang nền văn minh Tây Phương đến
cho đất nước này. Nó cũng đã mang Úc Đại Lợi vào thế giới hiện đại”.
Nhưng đối lại với cái nhìn ấy, người thổ dân vẫn tiếp tục
xem “Australia Day” là một ngày “Ngày xâm lăng” (Invasion Day) hay “Ngày than
khóc” (Day of Mourning). Những trang lịch sử vẫn còn đó để xác nhận cái nhìn và
cảm xúc của người thổ dân về ngày này. Ngày đó là khởi đầu của một cuộc diệt chủng
tàn bạo: người thổ dân bị sát hại hàng loạt như súc vật, văn hóa của họ bị chà
đạp, bao nhiêu gia đình bị phân tán, bao nhiêu đứa trẻ bị “đánh cắp”, đủ thứ bệnh
tật từ các nước Tây Phương được truyền lây sang cho người thổ dân...Dưới cái
nhìn của những người chủ đầu tiên của đất nước này, không gì chính đáng hơn để
gọi ngày “Australia Day” là “Ngày xâm lăng” hay “Ngày than khóc”.
Tôi hiểu và cảm thông được nỗi đau mất nước và bị tiêu diệt
của người thổ dân. Rất nhiều người Úc mà đại diện là cựu Thủ tướng Kevin Rudd
cũng đã nhìn nhận những trang lịch sử buồn thảm ấy. Hai tiếng “xin lỗi” (sorry)
mà Thủ tướng Rudd đã đại diện cho toàn dân Úc để ngỏ với người thổ dân cách đây
10 năm (2008) đã nói lên phần nào ý thức của người dân Úc về lịch sử đau buồn ấy.
Với 2 tiếng “xin lỗi” ấy với người thổ dân, người dân Úc, dù thuộc màu da, chủng
tộc hay văn hóa này, đã muốn bày tỏ cương quyết không để cho lịch sử lập lại,
nghĩa là không muốn để cho thái độ kỳ thị, nhứt là miệt thị với một sắc dân
nào, xảy ra trong thời đại này.
Có lẽ do ý thức ấy mà ngày “Australia Day” ngày càng tạo
ra nhiều tranh cãi hơn. Nhiều hội đồng thị xã đã quyết định không xem
“Australia Day” như ngày quốc khánh. Nhiều người đề nghị nên chọn một ngày khác
làm ngày quốc khánh. Có người bảo rằng lịch sử đã sang trang. Muốn hay không
cũng không thể thay đổi ngày ấy.
Nhưng với tôi, dù có sang trang, lịch sử vẫn còn đó. Quốc
gia nào cũng có một ngày quốc khánh. Trong khi chờ đợi Úc Đại Lợi sẽ chọn được
một ngày quốc khánh để cho mọi người dân Úc cùng ăn mừng, nhưng đồng thời vẫn
không xúc phạm đến tình cảm của người thổ dân, mỗi năm cứ đến ngày 26 tháng
Giêng, một người tỵ nạn như tôi, được Úc
Đại Lợi mở rộng vòng tay đến đón nhận, không thể không bày tỏ lòng biết ơn đối
với đất nước này. Cùng với tâm tình ấy, lịch sử Úc Đại Lợi cũng nhắc nhở tôi về
một trong những đức tính căn bản của một người dân đang sống trong một quốc gia
đa văn hóa và đa chủng tộc. Đó là tinh thần khoan nhượng. Úc Đại Lợi ngày nay
không còn là Úc Đại Lợi của duy người da trắng nữa. Đất nước này chỉ có thể
phát triển và vươn lên bằng sự đóng góp của người dân thuộc mọi màu da, chủng tộc
và văn hóa. Sự hài hòa của xã hội này chỉ có thể được xây dựng trên tinh thần
khoan nhượng của người dân. Xét cho cùng, lịch sử Úc Đại Lợi, từ một khởi đầu đầy
những trang đẫm máu, buồn thảm và đầy bất công, đã dần dần được viết lên bằng bằng
các đợt di dân và tinh thần khoan nhượng.
Bài học từ lịch sử Úc Đại Lợi mà tôi thấy cần phải không
ngừng học hỏi và trau dồi chính là tập sống tinh thần khoan
nhượng, tôn trọng và cảm thông trước những khác biệt của người
khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét