Chu Thập
01.09.17
Lâu nay, có lẽ cũng như phần lớn người dân Úc, cứ đến
ngày Quốc Khánh 26 tháng Giêng là tôi thấy vui. Vui với niềm vui chung của mọi
công dân Úc. Nhưng mới đây, khi theo dõi tin tức về việc hội đồng Thành phố
Yarra, thuộc vùng nội ô Đông Bắc Melbourne, quyết định tẩy chay ngày này, tôi
thấy niềm vui của mình trong ngày Quốc Khánh không còn trọn vẹn nữa.
Thay cho nghi lễ đón nhận và tuyên thệ nhập quốc tịch của
một số công dân mới cũng như một số lễ hội khác trong ngày 26 tháng Giêng, Hội
đồng Thành phố Yarra quyết định lấy ngày này để “đánh dấu sự mất mát của người
thổ dân”. Ngoài ra, với nghị quyết thông qua việc tẩy chay ngày 26 tháng Giêng,
Hội đồng Thành phố Yarra cũng kêu gọi vận động để Chính phủ Liên bang cử hành Quốc
Khánh vào một ngày khác. Hội đồng thành phố này cũng đề ra một kế hoạch thông
tin để giúp cho dân chúng Úc hiểu rõ hơn nỗi đau của người thổ dân trong ngày
26 tháng Giêng hàng năm.
Trở thành công dân Úc khá muộn màng, tôi hiểu rất lơ mơ về
lịch sử của đất nước mình đã chọn làm quê hương thứ hai. Riêng về ngày 26 tháng
Giêng hàng năm, tôi chỉ biết rằng đó là ngày kỷ niệm biến cố xảy ra năm 1788
khi những chiếc thuyền đầu tiên chở các tù nhân Anh cập bến vào Hải cảng Jackson,
Tiểu bang New South Wales và giương cao ngọn cờ của nước Anh để đánh dấu việc
thành lập cơ sở thuộc địa đầu tiên của nước này tại Úc Đại Lợi.
Đọc lại tài liệu lịch sử, tôi cũng biết rằng ý nghĩa của
ngày 26 tháng Giêng cũng biến chuyển theo thời gian. Thoạt tiên, ngày này được
gọi một cách mơ hồ là “Ngày kỷ niệm”, “Ngày đổ bộ đầu tiên”, “Ngày thành lập”
hay “ANA Day” ( Ngày của hiệp hội Australian
Natives’ Association, tức hiệp hội của người da trắng chào đời tại Úc). Mãi cho
đến ngày đầu năm dương lịch năm 1901, các thuộc địa của Anh tại Úc Đại Lợi mới
hợp lại để thành lập Liên bang, đánh dấu ngày chào đời của một nước Úc hiện đại.
Kể từ đó, người ta mới nghĩ đến một ngày quốc khánh. Nhưng phải chờ cho đến năm
1935, ngày 26 tháng Giêng mới được các tiểu bang và lãnh thổ Úc chính thức đặt
tên là “Australia Day” (Quốc Khánh) và phải đợi cho đến năm 1994, ngày này mới được mọi tiểu
bang và lãnh thổ nhìn nhận và mừng như một
ngày nghỉ lễ trên toàn quốc.
Đó là lịch sử chính thức về ngày Quốc Khánh 26 tháng
Giêng như tôi được biết. Nhưng Úc Đại Lợi không chỉ và cũng không còn là Úc Đại
Lợi của riêng người Anh hay người da trắng. Lịch sử của Úc Đại Lợi cũng không
chỉ mới có từ hơn 200 năm nay sau khi được Thuyền trưởng Cook “khám phá” hoặc
sau khi đợt tù nhân người Anh đầu tiên được đày sang để giúp thành lập thuộc địa
Anh. Trước khi được người Anh “khám phá” và đặt chân đến, Úc Đại Lợi đã từng là
quê hương của những người “thổ địa” đã
có mặt ở đó từ hơn 60 ngàn năm nay. Chắc chắn những người này nhìn ngày 26
tháng Giêng hàng năm với một cái nhìn khác.
Nếu tôi là một người thổ dân thì ngày 26 tháng Giêng hẳn
sẽ không bao giờ là một ngày để vui mừng
đối với tôi. Với người thổ dân, 26 tháng Giêng chỉ có thể là khởi đầu của một
tiến trình truất hữu đất đai, đất nước tràn ngập đủ các thứ dịch bệnh mà trước
đó họ chưa từng biết đến, biên giới và đất đai được phân chia bằng bạo lực, văn
hóa bị phá hủy, con người bị bóc lột, lạm dụng, hãm hiếp, gia đình ly tán và chịu
đủ mọi thứ luật pháp và trừng phạt về mặt xã hội.
Tôi hiểu được tại sao ngày 26 tháng Giêng hàng năm đối với
nhiều người thổ dân không phải là ngày Quốc Khánh, mà là Ngày Xâm Lăng. Rõ ràng
đó là ngày người Anh ngang nhiên xâm chiếm đất đai của người thổ dân.
Với nỗi buồn của người mất nước, một số người thổ dân còn
gọi ngày 26 tháng Giêng là Ngày Than Khóc. Than khóc cho số phận của cả một dân
tộc bị tàn sát, hãm hiếp và phân ly vì các chính sách đồng hóa của người da trắng.
Cũng có người, với một cái nhìn tích cực hơn, xem ngày 26
tháng Giêng hàng năm như một Ngày Sống Còn. Dù có bị đô hộ, tàn sát hay kỳ thị,
dân tộc và văn hóa thổ dân vẫn tồn tại.
Một biến cố lịch sử, hai cái nhìn: khai hóa, lập quốc đối
với người này, nhưng lại là thực dân, nô lệ, đọa đày, diệt chủng... đối với người
khác. Chuyện xảy ra tại Mỹ trong thời gian gần đây cũng cho thấy hai cái nhìn
như thế về cùng một biến cố, một biểu tượng hay một số nhân vật lịch sử. Đối với
nhiều người Mỹ, các bức tượng của một số tướng lãnh thuộc Nam quân đòi tự trị
trong cuộc nội chiến là những nhân vật lịch sử cần được duy trì, nhưng đối với
người da đen thì lại là biểu tượng của chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ.
Ngay cả bức tượng của nhà thám hiểm lừng danh là
Cristoforo Colombo có lẽ cũng gợi lên những trang sử đau buồn cho người thổ dân
Châu Mỹ. Ngày 12 tháng Mười năm 1492 là ngày đầu tiên Cristoforo Colombo tiếp
xúc với người thổ dân Châu Mỹ. Ông ghi lại trong nhựt ký rằng những người thổ
dân sẽ là những tên đày tớ tốt. Do đó ông quyết định sẽ mang về nước 6 người. 6
người này đã được mang ra trình diện cho dân chúng Tây Ban Nha xem. Sau chuyến
đi thứ hai, ông đã gởi về nước nguyên một đoàn người thổ dân để được đem đi bán
như nô lệ...
Ngày 12 tháng Mười năm 1492 được tưởng nhớ như một ngày
“khám phá” Châu Mỹ, nhưng chắc chắn sẽ mãi mãi là một ngày đau buồn đối với rất
nhiều người thổ dân Mỹ. Tượng của Cristoforo Colombo rải rác tại nhiều tiểu
bang Mỹ không thể không gợi lên những trang sử đau buồn như thế cho người thổ
dân Mỹ. Tôi hiểu được tại sao tại một số nơi như thành phố New York chẳng hạn,
người ta đang nghĩ tới chuyện tháo gỡ tượng của ông.
Riêng tại Úc, nhiều người cũng đặt lại vấn đề về bức tượng
của Thuyền trưởng Cook tại công viên Hyde Park ở Sydney. Cách đây mấy hôm, người
ta thấy có những dòng chữ thóa mạ chung quanh chân tượng của Thuyền trưởng
Cook: “Change the date” (Hãy đổi ngày (mừng Quốc khánh) và “No pride in
Genocide” (Chẳng có gì đáng hãnh diện vì sự diệt chủng). Không riêng chính phủ
liên bang mà nhiều người cũng đã phẫn nộ vì hành động phá phách, thóa mạ đối với
nhà thám hiểm nổi tiếng này.
Một ký giả người thổ dân nổi tiếng là ông Stan Grant cũng
đã lên án một hành động ấu trĩ và thiếu dân chủ như thế. Tuy nhiên, trong một
bài phân tách được đăng trên trang mạng
của đài ABC mới đây, ký giả này cho rằng dành cho ông cái công “khám phá” ra Úc
Đại Lợi là một hành động bôi nhọ đối với lịch sử của người thổ dân vốn là dân tộc
đã có mặt tại vùng đất này từ hơn 60 ngàn năm nay. Theo ông, cho rằng Thuyền
trưởng Cook đã “khám phá” vùng đất này năm 1770” là một huyền thoại đầy xúc phạm.
Nó phản ảnh cái nhìn theo đó người da trắng theo Kitô Giáo là chủng tộc trổi vượt
hơn mọi chủng tộc khác. Và dĩ nhiên đó là một thứ niềm tin đã tiêu diệt người
thổ dân khắp nơi trên mặt đất này.
Ký giả Stan Grant trích dẫn một số sự kiện như: năm 1452,
chính nhà lãnh đạo Giáo hội Công giáo lúc đó là Giáo hoàng Nicolas V đã chuẩn y
cho việc các nước theo Kitô Giáo ở Âu Châu được lên đường đi chinh phục, thực
dân hóa, khai thác, bóc lột và ngay cả tiêu diệt tất cả mọi dân tộc không theo Kitô Giáo; năm
1493, sau khi nhà thám hiểm Cristoforo Colombo (Christopher Columbus) trở về Âu
Châu sau khi đã gọi là “khám phá” ra Châu Mỹ, Giáo hoàng Alexander VI đã ban
hành một chiếu chỉ khẳng định rằng những vùng đất nào không được các vua chúa
Kitô Giáo cai trị đều là đất được tự do chiếm hữu. Một từ mới trong tự điển La
Tinh được đẻ ra là “Terra Nullius”, nghĩa là đất vô chủ. Và đất “vô chủ” cũng
có nghĩa là đất được tự do “cắm dùi” và chiếm hữu, mặc dù đã có những dân tộc
không phải là người da trắng theo Kitô Giáo đã từng cư ngụ và sống ở đó từ thuở
nào.
Theo Ký giả Stan Grant, bức tượng của Thuyền trưởng Cook
tại công viên Hyde Park không chỉ gợi lên cái niềm tin cho rằng người da trắng
theo Kitô Giáo là một chủng tộc trội vượt hơn các chủng tộc khác, rằng Úc Đại Lợi
của người thổ dân là một vùng đất “vô chủ”. Nó cũng chính là một thứ bia mộ
chôn vùi cái chết tức tưởi của cả một dân tộc đã từng có mặt trên vùng đất này
từ bao nhiêu ngàn năm trước.
Ngày nay, chủ trương về một vùng đất “vô chủ” để “khám
phá” và chinh phục không còn nữa. “Với Diễn đàn Thường trực về các Vấn đề Thổ
dân” (The UN Permanent Forum on Indigenous Issues), Liên Hiệp Quốc đã không ngừng
lên án một chủ trương như thế và xem đây như “nền tảng của những hành động vi
phạm nhân quyền của người thổ dân”.
Đau buồn vì thân phận của cả một dân tộc bị đày đọa và
ngay cả tiêu diệt, Ký giả Stan Grant viết rằng ông cũng chẳng còn muốn bước xuống
dòng sông dài nhứt của Úc Đại Lợi được đặt theo tên của một người đã từng muốn
tiêu diệt dân tộc của ông. Ông có ý nói đến dòng sông Murray và Sir George
Murray (1772-1846).
Nghĩ đến tượng của nhà thám hiểm Cristoforo Colombo hay của
một số tướng lãnh trong quân đội Nam quân trong thời Nội chiến tại Hoa Kỳ cũng
như tượng của Thuyền trưởng Cook tại Úc Đại Lợi, tôi không thể không liên tưởng
đến những biểu tượng của Đức quốc xã đối với người Do Thái. Ngày nay, nội việc
phủ nhận cuộc diệt chủng đối với người Do Thái do Đức quốc xã chủ xướng cũng đủ
để bị kết án rồi, nói gì đến việc trưng bày hay giương cao những biểu tượng của
thứ chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đồi bại và độc ác này.
Có lẽ hơn ai hết, người Việt tỵ nạn cộng sản dễ đồng cảm
với người Do Thái hơn cả. Có người Việt tỵ nạn cộng sản đích thực nào mà không
“sôi máu” khi nhìn thấy lá cờ máu, chớ đừng nói đến tượng của ông Hồ Chí Minh
hay những “ông thánh” của thứ chủ nghĩa vô nhân đạo như Lenin, Stalin và Mao Trạch
Đông. Tôi hiểu được tại sao tại các nước cựu cộng sản như Đông Âu chẳng hạn,
người ta đã xóa sạch hầu như mọi thứ biểu tượng của chủ nghĩa ấy. Chẳng ai nại
đến lý do lịch sử hay những nhân vật lịch sử để duy trì hay trưng bày những biểu
tượng chỉ làm cho những vết thương đang rỉ máu của nhiều người không bao giờ
lành.
Là một công dân Úc, tôi cảm được nỗi đau của người thổ
dân. Lịch sử của Úc Đại Lợi không chỉ mới được viết lên kể từ khi Thuyền trưởng
Cook đặt chân tới đất nước này. Lịch sử ấy đã bắt đầu từ hơn 60 ngàn năm qua và
bắt đầu với chính người thổ dân. Như ký giả Stan Grant đã khẳng định: “Úc Đại Lợi
được xây dựng trên 3 câu chuyện lớn là: Các Dân Tộc Tiên Khởi (tức người thổ
dân), truyền thống của người Anh và câu chuyện phong phú của người di dân”.
Tôi không biết rồi đây ngày Quốc Khánh của Úc có được mừng
vào một ngày khác hơn ngày 26 tháng Giêng không. Tôi sẽ vui hơn trong ngày đó nếu
ngày đó không còn là một ngày đau buồn đối với người thổ dân. Xét cho cùng sẽ
là một niềm vui quái ác khi niềm vui của mình là nỗi đau của người khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét