Chu Thập
Không hiểu tại sao
trong người tôi chẳng có chút máu Tây nào cả mà tôi lại thèm bánh mì hơn phở.
Dĩ nhiên, phải là bánh mì do người Việt làm mới được. Cứ mỗi lần xuống núi về
thành phố, tôi phải tìm mua cho bằng được bánh mì thịt, ổ thì ăn tại chỗ, ổ nữa
mang về nhà. Ở Hornsby, ngoại ô Đông Bắc Sydney, có một tiệm phở với cái tên
nghe rất tự tin là “Phở Ngon”. Ngon cỡ nào thì còn tùy khẩu vị và sự thẩm định
của mỗi thực khách. Nhưng riêng cá nhân
tôi, sau khi thử một hai lần, thấy không hợp khẩu vị, tôi đành quay trở về với
chân lý “cơm nhà vẫn hơn phở chợ”. Cho nên cứ mỗi lần vào tiệm “phở ngon” này
tôi không ăn phở mà lại gọi bánh mì thịt trước sự ngỡ ngàng của những người chạy
bàn.
Phải công nhận bánh
mì tây do người Việt chế biến có một hương vị độc đáo hơn bánh mì chính cống do
Tây làm. Người Việt cũng giỏi “khắc phục” khó khăn nên ngay cả khi đến thăm trại
tỵ nạn Palawan, Phi Luật Tân, tôi cũng được thưởng thức bánh mì nóng dòn nướng bằng
những lò tự chế. Thời gian ở Pháp, tôi cũng đã nghe chính miệng mấy ông tây bà
đầm từng sống ở Việt Nam bảo như thế. Bánh mì tây chính cống mà không có cả một
khay “phó mát” (fromage) và rượu vang đỏ đi kèm sau mỗi bữa ăn, thì chắc chắn
thua xa bánh mì nóng của Việt Nam chỉ được trét một chút “bơ” margarine, chớ đừng
nói tới ổ bánh mì thịt.
Lúc mới lớn, tôi
có một thằng bạn cùng xóm cũng thích ăn bánh mì như tôi. Không rõ do kinh nghiệm
bản thân hay do ai đó mách bảo, nó tuyên bố như đinh đóng cột rằng “mỗi buổi tối
ăn một ổ bánh mì nóng có trét bơ” sẽ mau lớn và “to con”. Vào cái thời mà cuốn
sách “Bắp thịt Trước Đã” có in hình của lực sĩ đẹp Nguyễn Công Áng ngoài bìa do Bác sĩ Phạm Văn Tươi biên soạn đang thu hút thanh thiếu niên, tôi không đeo đuổi
giấc mơ “làm người Quang Trung” của nhà văn Duyên Anh, mà chỉ thích có một thân
hình vạm vỡ nở nang, ít nhứt cũng phải như anh Vọi trong “Trống Mái” của Khái
Hưng. Thế là mỗi buổi chiều, nếu không ra sân banh thì chúng tôi cũng tập cử tạ
và tối đến rủ nhau đi mua bánh mì nóng có trét bơ margarine. Hôm nào túi tiền rủng
rỉnh mới dám chơi sang để trang bị cho ổ bánh mì nóng thêm chút xíu mại và đủ
các thứ phụ tùng. Có lẽ do lớn lên và “to con” hơn một chút nhờ những ổ bánh mì
của thuở hàn vi mà ngày nay, đi đâu tôi cũng thấy thèm bánh mì tây của người Việt
Nam. Vì khẩu vị cũng có, mà vì tình tự dân tộc cũng có. Với tôi, ổ bánh mì nóng
của người Việt Nam hải ngoại ăn đứt bánh mì của các sắc dân khác. Còn bánh mì
thịt thì đúng là một phát minh riêng của người Việt Nam.
Có lần đi thăm một
gia đình quen biết tại Mascot gần phi trường Sydney, tôi cảm thấy thật hãnh diện
khi chứng kiến một đoàn người, phần lớn là dân Úc trắng, dài đến cả hàng trăm
thước đang nối đuôi nhau trước một tiệm bánh mì thịt của Việt Nam. Sang Mỹ, tôi
lại càng thấy hãnh diện hơn vì ổ bánh mì của người Việt. Có lẽ những thương hiệu
như “Lee’s Sandwich” hay “Bánh mì Ba Lẹ” không chỉ nổi tiếng trong cộng đồng
người Việt ở Mỹ, mà cũng chẳng còn xa lạ với người Mỹ. Ngồi trên xe đò Hoàng trên
lộ trình San José - Little Saigon, xem các băng ca nhạc kịch của Thúy Nga Paris
by Night hay Trung Tâm Asia và thưởng thức ổ bánh mì thịt của người Việt Nam,
thì dù cho đường có dài cách mấy, cũng cảm thấy thú vị và ít lên ruột hơn đi
máy bay.
Đã góp phần vào
kho tàng ẩm thực của thế giới, người Việt hải ngoại cũng làm cho ngôn ngữ thế
giới thêm phong phú hơn. Mà đâu chỉ có ngày nay. Ngay cả cái thời mấy chú lính
Mỹ G.I mới sang Việt Nam, các “me mỹ” hay “chị em ta” cũng đã sáng chế và dạy cho
mấy anh một số ngữ vựng hay thành ngữ mà ngày nay hầu như quốc gia Anh thoại
nào cũng đều sử dụng. Chẳng hạn như câu “long time no see” (lâu rồi không gặp!),
không biết dân Úc chính hiệu có biết rằng đây là một thành ngữ do người Việt
Nam sáng chế ra không.
Nghe nói thời Pháp
thuộc, người Việt không những sáng chế thêm nhiều từ cho tiếng Pháp, mà còn dạy
mấy anh Tây nói cả tiếng lái nữa. Như một bà “me tây” nào đó đưa chồng đi sắm sửa.
Hỏi giá một món hàng, thấy đắt quá, bà ghé tai nói nhỏ với ông chồng: “Très
chaud” (nóng quá!). Ông chồng Tây hiểu ngay. Trời đang lạnh mà bà nói như thế tức
là muốn nói lái: “trop cher” (đắt quá).
Nhưng độc đáo nhứt
vẫn là danh hiệu “Hot Bread” được người Việt ở Úc dùng để “rửa tội” cho ổ bánh
mì nóng của mình. Ngày nay, thương hiệu này đã đi vào hầu như mọi hang cùng ngõ
hẻm của Úc Đại Lợi. Cứ thấy “Hot Bread” là biết ngay của người Việt. Nhưng dân
Úc chính cống cứ nói tới “hot” (nóng) là nghĩ ngay đến gia vị và nhứt là sự
“hưng phấn” về tình dục, chớ ai lại cho đó là hơi nóng bốc lên từ ổ bánh mì mới
ra lò. Tôi nghe kể về một ông Việt Nam nào đó, không biết có phải là chủ tiệm
“Hot Bread” không, một hôm có việc phải đến ngân hàng. Do bất đồng ngôn ngữ cho
nên giữa anh và cô nhân viên ngân hàng phải to tiếng với nhau. Đến một lúc, để
xoa dịu tình hình, anh mới xuống nước nói với cô: “You are so hot today!” (hôm
nay cô nóng nảy quá!). Nhưng với lỗ tai của một người Úc, đặt trong ngữ cảnh này,
“hot” chỉ có thể hiểu là “nóng về lửa tình” mà thôi. Nghe như vậy chắc chắn cô
nhân viên ngân hàng phải đỏ mặt. Không biết cái ông Việt Nam vô tình “sàm sỡ”
này có bị ăn một cái tát nào không.
Mỗi ngôn ngữ đều
có cái “thần thái” riêng của nó. Do đó, như người ta thường nói “dịch là phản bội”.
Nhưng ít nhứt trong trường hợp của “Hot Bread”, người Việt mình đã tỏ ra rất
trung thực. Nóng thì bảo là nóng, chớ không có một ẩn ý nào khác. Có đâu như
hai công ty bán lẻ lớn nhứt Úc Đại Lợi ngày nay là Coles và Woolworth.
Tôi mới đọc một
bài viết có tựa đề “Fresh is what they say it is” (tạm dịch là “tươi theo ý họ
muốn nói”) trên báo The Sydney Morning Herald số ra cuối tuần 6,7 tháng 7 vừa
qua. Bài báo cũng đề cập đến chuyện bánh mì. Nhưng không phải bánh mì nóng của
Việt Nam, mà là bánh mì “Panini” của Ý được bày bán trong các siêu thị Coles.
Trên bao bì của bánh Panini, Coles quảng cáo “fresh, baked in store” (bánh
nóng, nướng tại chỗ). Cũng như hàng triệu người Úc khác, một khách hàng đã mua
bánh mang về nhà và khám phá ra rằng cái bánh mới ra lò này đang bị đông đá ở
bên trong.
Ký giả Sarah
Whyte, tác giả của bài báo, viết rằng “trong thế giới nhuộm mầu sặc sỡ của các
siêu thị, chữ “fresh” (nóng, mới ra lò, tươi) không có ý nghĩa đơn giản của nó
nữa”. Các sản phẩm được mô tả là sản xuất tại chỗ hay mới lấy từ trong lò ra,
có khi đã phải băng qua cả 15 ngàn cây số trước khi được bày bán trên các kệ
hàng.
Theo ước tính, mỗi
tuần lễ có đến 32 triệu người đi mua sắm tại các siêu thị Coles và Woolworth. Cứ
một Úc kim tiêu ra thì có đến 80 xu dùng để mua thức ăn. Và thức ăn nào, đặc biệt
là trái cây và rau quả, cũng đều được dán thêm một lời mời gọi rất “đường mật”
và “bắt mắt” là “nóng hổi, tươi”.
Ông Peter
McDonald, một giảng sư về kinh doanh thuộc Đại học Sydney, nói rằng từ “fresh” (tươi)
được dán trên các món hàng bị lạm dụng”.
Hãng truyền thông
Fairfax Media đã phát giác rằng những đóa hoa được dán nhãn hiệu “xanh tươi vừa
mới được cắt từ vườn ra” (freshly cut flowers) trong Coles và Woolworths, trong
thực tế được nhập cảng từ Kenya và Columbia. Các loại cam quít được bày bán
trong Coles với nhãn hiệu “được trồng tại Úc” thật ra lại được nhập cảng từ
Pháp. Ngay cả bánh mì được ghi “nóng hổi mới ra lò” (freshly baked bread) cũng
xuất phát từ Ái Nhĩ Lan, Đức và Đan Mạch.
Khi ông Martin
Fisk, người mua bánh “Panini” còn đông lạnh bên trong biên thư yêu cầu Coles giải
thích về ý nghĩa của chữ “Fresh” thì một nhân viên phục vụ khách hàng (customer
service) của Coles mới email trả lời rằng từ “Fresh” được dùng theo nhiều nghĩa
khi nói về bánh mì, hoa, trái cây và sữa. Nhân viên này giải thích rằng mặc dù
có trải qua một số tiến trình, các sản phẩm này vẫn giữ nguyên phẩm chất nguyên
thủy. Do đó, từ “fresh” cũng có thể được sử dụng để chỉ những sản phẩm đã từng
được đông lạnh trước đó.
Nhưng Ủy ban cạnh
tranh và bảo vệ người tiêu thụ (The Australian Competition and Consumer) đâu có
đồng ý với cái lối định nghĩa “ba phải” trên đây của Coles về từ “fresh”. Trong
4 tuần lễ vừa qua, Ủy ban này đã tố cáo Coles cố tình đánh lừa khách hàng khi
dán chữ “fresh” lên bánh mì đông lạnh. Hồi tháng trước, Coles đã bị kiện ra Tòa
án liên bang vì các lời quảng cáo của siêu thị này có nội dung “ngụy tạo và
đánh lừa” khách hàng, nhứt là đối với các loại bánh mì.
Hôm thứ Hai tuần
trước, Coles đã bị tòa phạt 61 ngàn Úc kim vì đánh lừa khách hàng khi dán lên một
số trái cây và rau quả nhãn hiệu “được trồng tại Úc”, trong khi chúng lại được
nhập cảng từ Pháp và Mỹ.
Cuộc chiến “ngữ
nghĩa” hiện cũng đã lôi kéo một số nhân vật có thế giá tại Úc Đại Lợi. Ông Jeff
Kennett, cựu Thủ hiến tiểu bang Victoria đã than phiền với Ủy ban Cạnh tranh và
Bảo vệ người tiêu thụ rằng hồi năm ngoái ông có mua bánh mì hiệu “Cuisine
Royale”; trên bao bì có ghi “vừa mới ra lò”, nhưng nhìn kỹ lại thấy làm tại Ái
Nhĩ Lan.
Ngay cả cựu Thủ tướng
Malcolm Fraser cũng phẫn nộ với hệ thống siêu thị Coles. Ông kêu gọi tẩy chay
loại rau quả có dán nhãn hiệu “trồng tại Úc” hay “giúp Úc tự sản xuất” nhưng
trong thực tế lại được nhập cảng từ nước ngoài.
Hệ thống siêu thị Woolworths
cũng chẳng thua gì Coles trong việc sử dụng các nhãn hiệu mập mờ để đánh lừa
người tiêu thụ. Woolworths hiện đang có tất cả 900 siêu thị trên toàn Úc Đại Lợi.
Mỗi tuần lễ có khoảng 19.5 triệu lượt người viếng thăm các siêu thị của
Woolworths. Mới đây, một khách hàng đã than phiền với Ủy ban Cạnh tranh và Bảo
vệ người tiêu thụ rằng ông ta đã mua loại bánh mì “Ciabatta” tại một siêu thị
Woolworth. Mặc dù ngoài bao bì có ghi “bánh nóng ra ngày hôm nay, bán ngày hôm
nay”, nhưng thực tế bánh đã làm từ mấy ngày trước. Tổng giám đốc về thực phẩm
tươi của Woolworths là ông Pat McEntee cũng giải thích lòng vòng rằng chữ
“fresh” được công ty của ông sử dụng chỉ có nghĩa là “đồ ăn không có chất bảo
quản, không bị chế biến quá mức cho nên vẫn giữ được bản chất nguyên thủy”.
Tựu trung, ở đâu
và thời nào cũng có chuyện treo đầu dê bán thịt chó. Có khác chăng là ở mức độ tinh
vi mà thôi. Cách đây mấy tháng, thịt bò xay nhuyễn đóng hộp của Pháp, qua sự
soi rọi của kính hiển vi, đã lòi ra cái mặt thịt ngựa. Hay như mới đây, công ty
nuôi gà Steggles của Úc bị tố cáo vì quảng cáo gà “đi bộ” nhưng lại bán gà công
nghiệp. Thời xa xưa, người ta còn phân biệt được cái đầu dê với đầu chó hoặc ngửi
được mùi vị khác nhau của hai loại thịt này. Ngày nay, ở những nước như Trung
Quốc hay cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giống gì cũng làm giả được và nhứt
là làm giả bằng các thứ độc chất. Ở những nước văn minh, nhờ sự kiểm soát của
chính phủ và sự theo dõi của các cơ quan truyền thông, tuy có lừa được người
tiêu thụ, người ta cũng chỉ lừa được ở một mức độ có thể tạm dung thứ được.
Nhưng dù ở mức độ nào, đã lừa thì phải gọi đúng theo tên gọi của nó là lừa mà
thôi.
Tôi hy vọng sẽ chẳng
có ai than phiền hay đâm đơn kiện mấy cái lò bánh mì “Hot Bread” của tôi vì
bánh mì “nóng” mà mua vào buổi chiều thì có khi cũng teo tóp và dai không kém
gì cao su.
Bàn chuyện “ngữ
nghĩa” về hai chữ “nóng” và “tươi” là cũng chỉ để tự nhắc nhở mình phải biết sống
trung thực. Lại nhớ đến lời dạy của Chúa Giêsu: “Có thì nói có, không thì nói
không. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét