Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Hòa nhã và tử tế hơn!





Chu Thập
04.07.13


Theo dõi những diễn biến trong nội bộ của Đảng Lao Động trong những ngày vừa qua, tôi thấy sinh hoạt chính trị quả là một cuộc đấu đá thô bạo. Những người có giây thần kinh mỏng manh như tôi đừng mong chen chân vào chốn này. Tôi thầm phục các chính trị gia trong các nước dân chủ tự do, nhất là những người nắm giữ địa vị lãnh đạo. Lúc nào họ cũng có thể tỏ ra là người quân tử và cao thượng: người chiến thắng vẫn ca ngợi những thành tựu của kẻ chiến bại; kẻ thua cuộc, dù lòng ruột có héo hon đến đâu, cũng vẫn chúc mừng người vừa đánh bại mình!
Có lẽ đã thấm đòn với những đấu đá trong nội bộ Lao Động và thấy trước viễn ảnh của một cuộc xâu xé cũng sẽ rất thô bạo giữa Lao Động và Liên Đảng cho nên, trong bài diễn văn đầu tiên tại Quốc hội Liên bang sau khi dành lại quyền lãnh đạo Đảng Lao Động, Thủ tướng Kevin Rudd đã kêu gọi các vị đại diện của dân hãy tỏ ra “hòa nhã và tử tế hơn” trong các cuộc tranh luận.
Lời kêu gọi này của Thủ tướng Rudd khiến tôi nhớ lại bài diễn văn đầu tiên mà bà Margaret Thatcher đã đọc tại Quốc hội Anh sau khi được bầu làm thủ tướng. Trong bài diễn văn, bà đã trích dẫn lời kinh của thánh Phanxicô Assisi, vị thánh thời Trung cổ được cả thế giới ngày nay xem như sứ giả của hòa bình. Bà Thatcher nói: “Nơi nào có bất hòa, chúng ta hãy mang lại an hòa.” (x.Margaret Thatcher, The Downing Street Years, Harper Collins Publishers, London, 1993, p.19)
Nghe cứ như từ tòa giảng của một nhà lãnh đạo tinh thần. Thật vậy, xây dựng hòa bình và sống “hòa nhã và tử tế” là cốt lõi của giáo huấn trong bất cứ tôn giáo nào. Sở dĩ chúng ta thường nói “tôn giáo nào cũng tốt” là bởi tôn giáo nào cũng dạy con người “ăn ngay ở lành”, nghĩa là đối xử tử tế với nhau.
Trở lại cầm quyền lần này, có lẽ ý thức được sự cần thiết của thái độ “hòa nhã và tử tế” trong việc đối nhân xử thế chăng mà vị thủ tướng vốn từng mang tiếng là thô lỗ, cộc cằn đối với các cộng sự viên, đã mang theo một Quyển Kinh Thánh để tuyên thệ trước mặt Tổng toàn quyền. Nhưng đâu phải chỉ có Kinh Thánh của Do thái và Kitô giáo mới khuyên dạy con người sống “hòa nhã và tử tế”. Kinh Coran của người Hồi giáo cũng chỉ dạy có thế. Thành ra, khi tuyên thệ nhậm chức, người hồi giáo đầu tiên được bổ nhiệm vào nội các chính phủ là ông Ed Husic, thư ký của thủ tướng tại Quốc hội, đã cầm theo một Quyển Kinh Coran. Tôi nghĩ thầm: giá như người ta mang tất cả những quyển "Kinh Thánh" của các tôn giáo đến đặt trên bàn của Tổng toàn quyền và nội các chính phủ đến tuyên thệ thì đẹp biết mấy!
Lần đầu tiên theo dõi một phiên họp của Quốc hội, tôi cũng nhận thấy một chi tiết có ý nghĩa: khi tuyên bố khai mạc phiên họp, bà Anna Burke, Chủ tịch Hạ Viện, đã mời mọi người đứng lên đọc “Kinh Lạy Cha”. Chắc chắn, một khi tuyên bố tách khỏi mẫu quốc Anh để thành lập cộng hòa, thế nào Úc Đại Lợi cũng sẽ bãi bỏ nghi thức “tôn giáo” này. Nhưng bỏ qua một bên truyền thống tôn giáo của mẫu quốc mà Úc Đại Lợi vẫn còn phải tôn trọng, tôi thấy rằng trong bối cảnh sôi sục hiện nay, nếu các vị đại diện của dân, bất luận thuộc tôn giáo nào, biết chăm chú lắng nghe hay đọc Kinh Lạy Cha, họ cũng sẽ nhận ra cùng một sứ điệp: hãy cư xử “hòa nhã và tử tế” với nhau, bởi vì đỉnh điểm của lời kinh này chính là cam kết “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Tất cả những vế trước của Lời Kinh, từ việc xin cho “Danh Cha cả sáng” đến “Nước Cha trị đến”…đều chỉ có ý nghĩa và trở thành hiện thực nếu con người biết tha thứ cho nhau, nghĩa là biết vượt qua bất hòa để xây dựng hòa bình với nhau.
“Nhân Danh Cha” hay để bảo vệ tôn giáo, đức tin, Đạo Pháp mà loại trừ hay sát hại người khác là một thái độ mâu thuẫn. Chẳng có giáo huấn của tôn giáo nào chấp nhận hay khuyến khích như thế cả.
Cuồng tín tôn giáo là vết nhơ lớn nhứt trong lịch sử nhân loại. Là một tín hữu Kitô, tôi không thể không cảm thấy đau buồn vì lịch sử của Kitô giáo đã được viết lên với rất nhiều trang đầy dẫy những hành vi cuồng tín, trong đó lố bịch nhứt là hình ảnh thánh giá sánh vai với lưỡi gươm hay họng súng.
Là một người có tôn giáo, tôi cũng cảm thấy nhục nhã không kém khi chứng kiến vô số những hành vi cuồng tín, khủng bố do các tín đồ tôn giáo nhân danh thần minh, thượng đế, đấng sáng lập đạo hay đạo pháp…để miệt thị, loại trừ, sát hại người không đồng tín ngưỡng với mình. Thật là đắng cay khi phải nghe cố nhạc sĩ John Lennon của ban The Beatles gào thét: “Hãy thử tưởng tượng một thế giới không có tôn giáo. Mọi dân tộc sẽ sống trong hòa bình”. Tôn giáo gây chia rẽ hiềm khích ư? Hay chính con người lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ và hiềm khích? Tôn giáo dạy con người bạo động ư? Hay chính con người mới nhân danh tôn giáo để gây bạo động?
Gần đây, tôi cảm thấy lo ngại khi theo dõi những xung đột tôn giáo tại Miến Điện. Có lẽ chẳng có nơi nào các tín đồ phật giáo tỏ ra khoan nhượng, hòa nhã và tử tế cho bằng tại nước này. Các sư sãi, nếu có xuống đường một cách ôn hòa và bất bạo động, ngay cả sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình, thì cũng chỉ để bênh vực cho quyền lợi của người dân. Tôi khâm phục các nhà sư đã xả thân hy sinh trong cuộc phản kháng dân sự bất bạo động dạo tháng 9 năm 2007. Nhiều nhà sư đã bị nhà cầm quyền quân phiệt Miến Điện sát hại một cách dã man. Các vị này đã không “tử vì đạo” cho bằng chết cho nhân quyền, cho tự do và quyền sống của người khác. Thật đáng khâm phục gương hy sinh cao cả của những nhà sư như thế!
Nhưng mới đây, tạp chí Time, trong số ra ngày 1 tháng 7 vừa qua, lại trình bày điều mà tạp chí này gọi là “Bộ mặt khủng bố của Phật giáo” (The Face of Buddhist Terror). Đó là tựa đề trên hình bìa của tờ báo, kèm với bức hình của nhà sư Wirathu, người đang kêu gọi các phật tử mở “thánh chiến” chống lại người hồi giáo tại Miến Điện.
Theo phóng viên Hannah Beech, tại một ngôi chùa ở Mandalay, thành phố lớn thứ hai sau Thủ đô Rangoon, nhà sư Wirathu, người được mệnh danh là “Bin Laden của Miến Điện”, đã nói với các tín đồ rằng “Đã đến lúc không còn phải ngồi yên nữa. Đây là lúc phải đứng lên, làm cho máu sôi sục”.
Hiện nay máu đang sôi sục trong rất nhiều phật tử Miến Điện và dĩ nhiên máu của người hồi giáo lại tiếp tục chảy. Trong năm vừa qua, theo lời hiệu triệu của nhà sư Wirathu, một số tín đồ phật giáo cuồng tín đã tấn công cộng đồng hồi giáo thiểu số tại nước này. Các tổ chức tranh đấu cho nhân quyền cho biết đã có hàng trăm tín đồ hồi giáo bị giết chết. Phần lớn nạn nhân là những người Rohingya, nhóm thiểu số hồi giáo lớn nhứt tại Miến Điện. Dù chỉ chiếm có 5 phần trăm trong tổng số 60 triệu dân, những người hồi giáo này vẫn bị nhà sư Wirathu xem như một mối đe dọa cho xứ sở và văn hóa Miến Điện. Nhà sư này giải thích với các tín đồ: “Người hồi giáo sinh sản rất nhanh, họ cưỡng chiếm và hãm hiếp đàn bà con gái của chúng ta. Họ sẽ chiếm xứ sở của chúng ta. Tôi không để cho họ làm điều đó. Chúng ta phải gìn giữ bản sắc phật giáo của Miến Điện”.
Theo phóng viên Beech, Phật giáo cuồng tín hiện đang thâm nhập vào nhiều nước tại Á châu. Năm nay, tại Sri Lanka, một trong những nước có tỷ lệ tín đồ phật giáo cao nhứt thế giới, các tổ chức phật giáo ái quốc vốn có liên hệ với các viên chức cấp cao trong chính phủ, đang tạo uy thế; các nhà sư đã góp phần vào việc phá hủy tài sản của người hồi giáo và các tín hữu Kitô. Tại miền Nam Thái Lan, nơi cuộc nổi dậy của người hồi giáo đã khiến cho 5 ngàn người bị giết chết hồi năm 2004, quân đội hiện đang huấn luyện cho các dân quân và cũng thường tháp tùng các nhà sư mỗi khi các vị đi khất thực. Tại chùa Wat Lak Muang, ở Patani, hiện có 10 nhà sư trụ trì, nhưng có đến 100 binh sĩ canh gác. Sư đoàn 23 bộ binh của quân đội Thái hiện đặt bản doanh ngay trong khu vực của ngôi chùa. Mỗi năm có đến hàng ngàn thanh niên phật tử tình nguyện đến đây để được thụ huấn về quân sự và sau đó trở về canh giữ làng mạc của mình. Nhà sư Purassaro, một trong những vị đang trụ trì tại ngôi chùa cho biết ông hiện đang có 3 khẩu súng. Nhà sư này giải thích: “Là một phật tử, có thể tôi cảm thấy có lỗi. Nhưng chúng tôi phải tự bảo vệ”.
Dĩ nhiên, đưa quân đội và súng ống vào nhà chùa cũng có nghĩa là nhắn gởi với người hồi giáo rằng họ đang là một mối đe dọa. Về phía người hồi giáo, họ cũng sẽ cảm nhận rằng họ không phải là thành phần của dân tộc và đất nước. Mối nghi ngờ giữa hai bên đã lên đến cực độ. Hầu như nhà sư Thái nào tại miền Nam Thái Lan cũng đều cho rằng hồi giáo là một tôn giáo của bạo động và các đền thờ hồi giáo là nơi cất giữ võ khí. Đối lại với bạo động, một số nhà sư và phật tử đã từ bỏ tinh thần khoan nhượng và tha thứ của Phật Giáo để đi vào con đường ăn miếng trả miếng của bạo động.
Đây cũng chính là con đường mà nhà sư Wirathu của Miến Điện đã chọn. Hơn ai hết, nhà sư này biết rõ rằng dung hòa tinh thần vô chấp, khoan nhượng, bao dung và tha thứ của Phật Giáo với hận thù, bạo động là điều hoàn toàn đi ngược lại với giáo lý Nhà Phật. Nhưng ông lại biện minh: “Trong Phật Giáo, chúng tôi không được phép tấn công. Nhưng chúng tôi có quyền bảo vệ cộng đồng của chúng tôi”. Và “tự vệ” cuối cùng lại đồng nghĩa với loại trừ, trả đũa, tấn công và dĩ nhiên bạo động, thù hận và sát hại.
Dĩ nhiên, những người phật tử chân chính không bao giờ chấp nhận cách hành xử “mắt đền mắt răng thế răng” ấy. Ở những nơi mà hận thù đã cao chất ngất, người ta vẫn còn chứng kiến được tinh thần bao dung và tha thứ của Phật Giáo. Hồi năm 2011, một buổi sáng nọ, một nhà sư Thái trụ trì tại chùa Wat Lak Muang, tên là Watcharapong Suttha, đang đi khất thực với sự hộ tống của binh sĩ. Một quả bom đã phát nổ. Nhà sư bị thương nặng. Một nửa thân thể của ông bị ghim đầy những mảnh bom. Hiện nay, ông đã cởi áo cà sa. Mắt ông bị mờ đi và thân thể ông đầy sẹo. Nhưng ông không hề lên tiếng trách móc bất kỳ ai. Ông nói: “Hồi giáo là một tôn giáo ôn hòa, cũng như Phật Giáo và mọi tôn giáo khác. Nếu chúng ta đổ tội cho người hồi giáo, họ cũng sẽ đổ tội cho chúng ta và bạo động sẽ không bao giờ chấm dứt.” (x.Time, 1/7/2013)
Đây chính là tiếng nói đích thực của tôn giáo. Trên thế giới hiện đang xảy ra nhiều xung đột bạo động với sự can dự của các tín đồ tôn giáo. Có người nhân danh tôn giáo, đức tin, đạo pháp để khích động hận thù và tạo ra bạo động, chiến tranh. Nhưng chắc chắn, tự trong cốt lõi, tôn giáo nào cũng chỉ dạy con người “ăn ngay ở lành” mà thôi. Đó là giới răn chung của mọi giáo pháp. Đó là nơi gặp gỡ của mọi tôn giáo và cũng là nơi gặp gỡ của mọi con người. Khi con người biết cư xử “hòa nhã và tử tế” với nhau, họ mới thật sự “sống đạo” theo đúng tinh thần của tôn giáo mình.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét