Chu Thập
16.07.13
Tôi yêu thích sự
chân thật. Tôi nói thật chớ không nói như ông thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn
Dũng đâu. Nghe đâu trong một buổi nói chuyện trực tuyến với người dân trong nước,
ông tuyên bố chắc nịch: “Tôi yêu nhứt sự
trung thực và ghét nhứt sự giả dối”. Không biết năm 11 tuổi, vào bưng đi
theo “cách mạng”, ông du kích con này có học được bài thơ “Lời mẹ dặn” của nhà thơ Phùng Quán thời Nhân Văn Giai Phẩm không? Nghe ông tuyên xưng “yêu nhứt sự trung thực và
ghét nhứt sự giả dối”, tôi cứ tưởng như
chế độ cộng sản Việt Nam sắp sụp đến nơi rồi vì ít nhứt cũng còn có một lãnh tụ
cộng sản biết tìm kiếm, tôn trọng và yêu mến sự thật. Nếu không nhìn thấy cờ đỏ
sao vàng đang bao phủ lấy ông và nhắm mắt để quên đi bộ mặt đểu giả của ông thì
tôi lại tưởng như nghe một nhà lãnh đạo tinh thần nào đó đang thuyết giảng.
Những lời như thế,
tôi nghĩ chỉ nên được nghe thốt ra từ miệng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo
tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng mà thôi. Nhà lãnh đạo tôn giáo này đi đâu cũng
được người ta kính nể, lắng nghe, bởi vì lúc nào trong con người của ngài cũng
có sự trung thực, nghĩa là lời nói và hành động luôn đi đôi với nhau. Khuyên dạy
người ta sống yêu thương, ngài luôn bày tỏ thái độ khoan nhượng và tha thứ,
ngay cả đối với kẻ thù của mình. Khuyến khích người ta sống đơn giản, ngài xuất
hiện trước công chúng một cách đơn sơ, từ cách ăn mặc, giày dép cho đến lời ăn
tiếng nói.
Gần đây, tôi cũng
nhìn thấy một hình tượng như thế nơi Đức Phanxicô, nhà lãnh đạo của trên một tỷ
người công giáo trên khắp thế giới. Nghe nói mới đây ngài đã gởi một thông điệp
đầu tay cho mọi tín hữu trên khắp thế giới. Thông điệp nào của các vị giáo
hoàng cũng thường dài, lý thuyết và trừu tượng. Vốn dị ứng với những lời thuyết
giảng, tôi không biết có đủ can đảm để đọc hết bức thông điệp không. Nhưng theo
dõi cuộc sống của vị giáo hoàng này thì quả thật, tôi thấy mình đang bị thu
hút. Có nhiều thay đổi nhỏ nhưng đầy tính cách mạng nơi vị giáo hoàng người Á
Căn Đình gốc Ý này.
Mới đây, ai đó đã đặt
ngài ngồi bên cạnh bức chân dung của người tiền nhiệm của ngài là Đức Bênêđictô
XVI và làm một cuộc so sánh. Có 7 điểm khác biệt nhỏ nhưng đầy ý nghĩa giữa hai nhà
lãnh đạo công giáo. Trước hết, Đức Phanxicô ngồi trên chiếc ghế bằng gỗ chớ không
“ngự” trên một ngai vàng như vị tiền nhiệm của ngài. Ngài không mặc áo choàng
ngắn màu đỏ và khăn quàng cổ có thêu chỉ vàng như các vị giáo hoàng trước ngài.
Ngài vẫn mang đôi giày màu đen thường nhựt chớ không phải đôi giày màu đỏ vốn
chỉ được đặt làm riêng cho các vị giáo hoàng. Ngài mang trên ngực một cây thánh
giá bằng kim loại thường chớ không được cẩn đá quý hoặc kim cương. Nhẫn ngài
đeo trên tay cũng bằng bạc chớ không phải bằng vàng như các vị giáo hoàng đi
trước vẫn mang. Bên trong chiếc áo choàng trắng của giáo hoàng, ngài vẫn mặc chiếc
quần đen chớ không phải một loại quần hiệu được may riêng cho các vị giáo
hoàng. Điểm khác biệt cuối cùng giữa ngài và các vị tiền nhiệm là: bục ghế ngài
đang ngồi vẫn để trơ trụi chớ không được trải thảm đỏ như vẫn thường thấy. Tôi
không biết từ trên thiên đàng nhìn xuống, Đức Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng sắp
được phong thánh, sẽ nghĩ gì về người kế vị mình.
Gây sửng sốt hơn cả
có lẽ là phản ứng của Đức Phanxicô khi thấy một bức tượng của mình đã được dựng
lên trong ngôi vườn bên cạnh nhà thờ chính tòa Thủ đô Buenos Aires, nơi ngài đã
từng làm tổng giám mục. Du khách chen nhau để được chụp hình trước bức tượng
này. Vừa nghe tin như thế, ngài đã lập tức gọi điện thoại cho vị linh mục quản
nhiệm nhà thờ chính tòa để yêu cầu tức khắc tháo gỡ bức tượng xuống. Ngài cho
biết ngài không muốn người ta phát động “tệ nạn sùng bái cá nhân” đối với ngài.
Tôi cũng có nghe
nói ngày 22 tháng 6 vừa qua, như thông lệ, để vinh danh một vị tân giáo hoàng, Tòa thánh
Vatican có cho tổ chức một buổi hòa nhạc “Beethoven” tại đại thính đường Phaolô
VI. Vào giờ phút cuối, Đức Phanxicô đã không xuất hiện. Chiếc ghế dành cho ngài
vẫn để trống. Nhiều người đã hiểu được tín hiệu mà đức Phanxicô muốn nhắn gởi:
ngài muốn bãi bỏ “truyền thống” với những nghi lễ “hoành tráng” và quan cách vốn
chỉ dành cho vua chúa, giới thượng lưu và quyền thế.
Thêm một cử chỉ đầy
ý nghĩa khác: trái với thói quen của các vị giáo hoàng kể từ Thế kỷ thứ 17, Đức Phanxicô quyết định sẽ không đi nghỉ hè tại
biệt thự sang trọng ở Castel Gandolfo, một thành phố du lịch nằm ở mạn Nam Roma.
Với con người khi còn là hồng y đã từng ngồi xe buýt công cộng và đi chợ nấu ăn
lấy, đi nghỉ hè trong một ngôi biệt thự sang trọng thì có khác gì các bậc vua
chúa, giới quyền thế và giai nhân tài tử.
Tôi tin là ngài sẽ
còn làm nhiều cử chỉ “ngoạn mục” hơn nữa từ ngày 22 đến 29 tháng 7 tới đây, khi
đến tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ diễn ra tại Rio de Janeiro, Ba Tây. Giới trẻ
công giáo thế giới hẳn sẽ thấy một khuôn mặt lãnh đạo mới, một nhà lãnh đạo mà
quyển lực không xuất phát từ chức vụ, dù có thánh thiêng đến đâu, cho bằng từ tư cách khiêm tốn, siêu thoát và trung thực.
Với tôi, đó mới thực sự là sức mạnh, là quyền lực. Một quyền lực như thế không
cần phải giành giựt mà vẫn có, cũng chẳng cần ai trao cho và cũng chẳng phải sợ
ai cướp lấy.
Lịch sử từ cổ chí
kim luôn chứng minh rằng thứ quyền lực có được từ lò thuốc súng theo kiểu của
Mao Trạch Đông hoặc cướp lấy từ tay người khác đều là thứ của thiên trả địa. Sự
sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Đông Âu và Liên Xô năm 1989 và đầu thập niên
1990 và gần đây cái chết tức tưởi của một Saddam Hussein, một Gaddafi là một bằng
chứng hùng hồn về chân lý ấy. Ngay cả thứ quyền lực được trao tay một cách
chính đáng qua lá phiếu của người dân cũng chỉ là một thứ bông hoa sớm nở tối
tàn. Hôm nay dân chúng trao cho, ngày mai họ đòi lại.
Trong lịch sử nước
Anh, liền sau Đệ nhị thế chiến, có ai được đón rước tưng bừng như một anh hùng
dân tộc cho bằng Thủ tướng Winston Churchill. Vậy mà liền sau đó, người dân Anh
đã hạ bệ và hất ông ra khỏi dinh thủ tướng không chút xót thương. Sau ông
Churchill, còn ai được ca ngợi và tung hô cho bằng nữ Thủ tướng Margaret
Thatcher, người đã được bầu làm thủ tướng Anh đến 3 nhiệm kỳ để rồi cuối cùng
phải cuốn gói ra đi trong buồn thảm. Nhưng nhục nhã hơn có lẽ là số phận của cố Tổng thống Richard Nixon của Hoa Kỳ, người bị buộc phải từ chức ở đầu nhiệm kỳ
hai chỉ vì nghe lén điện thoại của đối thủ. Dù sao, có lẽ ông Nixon cũng còn có
chút liêm sỉ để ra đi chớ không đến nỗi bị mang ra trước công chúng để cung
khai về những chuyện bê bối thầm kín nhứt của mình như ông tổng thống tài ba và
đào hoa Bill Clinton. Còn Tổng thống George Bush Jr thì thật là tội nghiệp: chẳng
có tổng thống Mỹ nào rời tòa Bạch Ốc mà bị dân chúng khinh thường và chán ghét
như ông.
Số phận của các
nhà lãnh đạo Úc của chúng ta cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Có ai như cựu Thủ tướng
John Howard: 11 năm cầm quyền là một thành tích chẳng ai sánh kịp, vậy mà cuối
cùng không những mất ghế thủ tướng, mà còn bị hất khỏi cả chiếc ghế dân biểu của
mình, kết liễu cả một sự nghiệp chính trị . Nhưng ra đi như ông Howard kể ra
cũng còn danh dự. Có đâu như bà Julia Gillard: vừa mới hùng hổ tuyên bố tử thủ,
sau đó vài phút lủi thủi ra ghế sau ngồi trông thiệt là tội nghiệp! Trước bà,
những người tài ba như các ông Bob Hawke, Paul Keating, Hewson…chẳng có vị nào
ra đi trong tiếng vỗ tay đưa tiễn của người dân cả.
Chính trị quả là một
nghề tàn bạo. Không bị thù ghét như các nhà độc tài, không bị sát hại dã man
như cố Tổng thống Ngô Đình Diệm hay bị ám sát như cố Tổng thống John F.Kennedy
hay như một số thủ tướng Ấn Độ, Pakistan
thì cuối cùng cũng chẳng ai tránh được cảnh lên voi xuống chó. Nhưng bã quyền lực
là một thứ khó tiêu hóa. Ăn không được thì đạp đổ. Cho nên chẳng có ai học được
bài học từ thất bại và nhìn nhận sai lầm của mình. Ai cũng đổ lỗi cho người
khác về sự thất bại của mình. Hồi ký của bất cứ một chính trị gia nào hầu như đều tìm
cách lèo lái không phải là một lời xưng thú “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại
tôi mọi đàng” như ông thánh Augustinô ở Thế kỷ thứ năm của Kitô giáo, mà toàn là
những lời biện minh và tự vinh danh.
Tựu trung, quyền lực,
dù là quyền lực từ lò thuốc súng hay từ lá phiếu của người dân, thường làm cho
con người ra hoang tưởng. “Đại tá Muammar
Gaddafi là một điển hình. Nắm quyền lực tuyệt đối tại Lybia trong suốt 42 năm,
ông đã phải sống những ngày cuối đời trong cảnh trốn chui trốn nhủi, cầm hơi bằng
gạo sống và mì ống mà đám hầu cận nhặt được từ các nhà dân bị bỏ hoang. Bất chấp
thực tế phũ phàng đó, suốt gần hai tháng
trốn chạy khỏi thủ đô Tripoli cho đến khi bị phát giác, ông vẫn quyết không chịu
từ bỏ quyền lực vì một mực cho rằng người dân Libya vẫn còn yêu quý mình. Kết cục
là ông đã bị đám chiến binh cuồng nộ hạ sát trong một cảnh tượng hỗn loạn, đầy
bạo lực và khủng khiếp ngày 20 tháng 10 năm 2011. Sau đó, xác ông lại bị trưng
bày trong kho lạnh của một hàng thịt ở Misrata như một “chiến lợi phẩm” cho
đông đảo dân chúng “chiêm ngưỡng”.
Lúc
còn ở đỉnh cao quyền lực, nhà độc tài này đã tự phong cho mình đủ mọi tước hiệu
như “nhà lãnh đạo anh em”, “người dẫn đường cách mạng”, “người bảo vệ hơn 6 triệu
dân Libya”, “vua của các vị vua Phi Châu” hay “lãnh tụ của thế giới hồi giáo”
v.v
Đại
tá Gaddafi thực ra không phải là trường hợp cá biệt mà là một hiện tượng phổ biến
trong thế giới độc tài: đó là chứng hoang tưởng của những kẻ vốn quen với việc
cướp lấy quyền lực và nắm giữ quyền lực chuyên chế và độc đoán. Hitler, Stalin,
Mao Trạch Đông…đều như thế cả.
Hoang
tưởng là một chứng bệnh tâm thần rất khó chữa. Bởi lẽ, như Lord Acton, tác giả
kiêm chính trị gia người Anh ở thế kỷ 19, đã nói: “Quyền lực dẫn tới tha hóa,
quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”. Sau những gì đã diễn ra trong thế kỷ
20 cũng như đầu thế kỷ 21 này, đặc biệt là “dấn ấn” đậm nét của các lãnh tụ cộng
sản “lỗi lạc”, nhân loại có lẽ đã “ngộ” thêm một “chân lý” nữa về quyền lực, đó
là: “Quyền lực dẫn tới hoang tưởng, quyền lực tuyệt đối thì dẫn tới hoang tưởng
tuyệt đối.” (x. Lê Anh Hùng, Sự Hoang tưởng của Quyền lực, trên
trang mạng Quan Làm Báo).
Về quyền lực, tôi
vẫn nhớ mãi câu nói bất hủ của nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng nhứt dưới thời
cộng sản Nga là văn hào Aleksandr Solzhenitsyn, tác giả của quyển tiểu thuyết “Quần
đảo Gulag”: “Bạn chỉ có quyền trên dân
chúng bao lâu bạn không tước đoạt bất cứ điều gì của họ. Nhưng một khi bạn đã
cướp lấy tất cả mọi sự của một con người, bạn không còn quyền lực nào trên người
đó nữa. Người đó đã được tự do trở lại”. Suy rộng ra, tôi nghĩ rằng bất cứ
ai cũng có thể có một quyền lực riêng của mình nếu người đó không quỵ lụy trước
quyền lực của người khác để đội trên đạp dưới đã đành, mà cũng chẳng lệ thuộc
vào bã vinh hoa của quyền lực và nhứt là không chịu khuất phục trước sức mạnh của
tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm và những thứ phù du trong cuộc đời này.
Đó là quyền lực
mà, ngoại trừ chính tôi tự tay đánh mất, không một ai có thể tước đoạt được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét