Chu Thập
18.9.15
“Quyền được buồn”: tôi đọc được một thứ quyền như thế trên miệng của một
nhân vật khá nổi tiếng trong nước cũng như với người Việt tỵ nạn: ông Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
Nhắc tới tên ông, người Việt tỵ nạn, nhứt là những người đã từng chứng kiến
hay còn sống sót sau cuộc thảm sát hồi Tết Mậu Thân năm 1968, đều có sẵn trên
môi miệng hai tiếng “hung thần”. Mới đây, khi nhìn thấy hình ảnh của một Hoàng
Phủ Ngọc Tường đang ngồi xe lăn với “cõi chết đã gần kề”, tác giả Lữ Giang đã
trưng dẫn rất nhiều bằng chứng cho thấy vai trò và trách nhiệm của ông trong vụ
thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế. Trước hết, ông Lữ Giang nhắc đến cuốn sách có tựa
đề “The Vietcong Massacre at Hue” (Cuộc
thảm sát của Việt Cộng ở Huế) của nữ bác sĩ Elje Vannema xuất bản năm 1976. Viên
bác sĩ người Hòa Lan này đã có mặt tại Huế khi biến cố xảy ra. Bà đã ghi lại
các việc làm của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và một hung thần khác là ông Nguyễn Đắc
Xuân như sau: “Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tu viện (Dòng
Mai Khôi), Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tu viện do Hoàng Phủ
Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp Đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên
trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây.” Bác sĩ Elje Vannema cho biết
đã kiểm kê được qua 22 mồ tập thể với số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326
người. Riêng tại trường Gia Hội, nơi Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân điều
hành, có 203 người bị giết.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Phóng viên Burchett và đoàn làm phim Việt
Nam Thiên Sử Truyền Hình tại Huế năm 1982, chính Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã
xác nhận mình là nhân chứng của biến cố Tết Mậu Thân, nhưng cho rằng thủ phạm vụ
tàn sát là Mỹ Ngụy chớ không phải Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông khẳng định: “Bởi
vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn thế giới bên ngoài quan tâm, chúng chuyển tất
cả tội ác của chúng và đổ lỗi cho những người làm cách mạng chống lại nhân dân
của họ. Tôi ám chỉ việc chúng đã dùng vụ thảm sát như một bửu bối đặc biệt để
bôi nhọ cách mạng Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris. Đây là điều tôi muốn nêu
rõ vì tôi biết như là một nhân chứng”
(Lữ Giang, Nói với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đàn Chim Việt online 25/8/2015).
Không những là một “nhân chứng”,
Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đóng một vai trò tích cực trong vụ thảm sát, nhưng
trong một cuộc phỏng vấn dành cho Tác giả Nguyễn Đức Tùng dạo tháng 8 năm 2008,
được phổ biến trên trang mạng Da Màu và được Việt Luận cho đăng lại trong số ra
ngày Thứ Sáu 4 tháng 9 vừa qua, ông vẫn tiếp tục trút bỏ trách nhiệm của cuộc
thảm sát Mậu Thân lên đầu Mỹ Ngụy và khẳng định rằng ông không hề có mặt ở Huế
khi xảy ra cuộc thảm sát. Là một người “lên núi” đi theo cách mạng bạo động,
nhưng ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng bản tính ông “hợp với đi tu”, “lúc nhỏ không
thể giúp mẹ làm được việc cắt cổ gà” thì làm gì có chuyện bắn giết người trong
chiến tranh. Nhưng không hiểu tại sao ông lại tâm sự: “Sau vụ Mậu Thân xong,
tôi suy nghĩ mãi, tôi buồn quá, tôi muốn một mình ra một hoang đảo ở một mình
và sẽ không chọn phe phái nào cả”.
“Buồn” và “quyền được buồn” là một trong những ý niệm nổi bật của ông Hoàng
Phủ Ngọc Tường trong cuộc phỏng vấn dành cho Tác giả Nguyễn Văn Tùng. Năm 1966,
“buồn” vì thế sự, đang là một giáo sư ở trường Quốc học Huế, ông đã bỏ lên núi
đi theo cách mạng bạo động cộng sản. Sau cuộc thảm sát Mậu Thân năm 1968, ông
cũng “buồn” đến nỗi chỉ muốn tìm ra một hoang đảo ở một mình”. Nhưng năm 1987,
có lẽ ông không còn “buồn” nữa bởi vì sau nhiều lần làm đơn, ông đã được chính
thức kết nạp vào Đảng. “Buồn” thế nào được bởi vì người cộng sản đâu được phép
“buồn” và bởi vì chế độ cộng sản không những đã tước đoạt và chà đạp những quyền
căn bản của con người, mà cũng chối bỏ cả những tình cảm riêng tư và thiêng
liêng nhứt của con người.
Tôi nghĩ như thế khi liên tưởng đến câu nói khó quên của người cộng sản gộc
Võ Văn Kiệt (1922-2008), người đã từng giữ chức vụ thủ tướng từ năm 1991 đến
năm 1997. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo “Quốc Tế” (nay đổi tên thành
“Thế giới và Việt Nam”) trong số báo chuẩn bị Tết Ất Dậu 2005 và kỷ niệm “chiến
thắng 30 tháng Tư”, cựu Thủ tướng Kiệt nói rằng trong cuộc chiến vừa qua, “có
hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Vì Thủ tướng Kiệt nhìn
nhận “quyền được buồn” của hàng triệu người Miền Nam mà bài phỏng vấn đã bị
ngâm tôm một thời gian. Mất tất cả, chỉ còn lại một chút quyền thiêng liêng giữ
kín trong tâm hồn là “quyền được buồn” mà cũng bị người cộng sản tước đoạt, có
lẽ chẳng có nỗi buồn nào lớn hơn.
Càng thêm tuổi, tôi càng thấy trong cuộc đời chẳng có gì chính đáng cho bằng
nỗi buồn. Theo khuynh hướng tự nhiên ai mà chẳng muốn trốn tránh nỗi buồn. Ngay
từ nhỏ, tôi đã được dạy dỗ phải tránh những cảm xúc buồn. Rồi trong giao tiếp
hàng ngày, mỗi khi thấy có người đang buồn, tôi lại cố gắng an ủi và khuyên người
ta “thôi đừng buồn nữa, đừng khóc nữa!. Cư xử như thế, tôi muốn chuyển đi một
thông điệp cho rằng buồn là một điều xấu cần phải tránh. Sống là phải sống vui,
là phải đẩy lui nỗi buồn.Nhưng liệu một cuộc sống chỉ có “vui” thôi, có thực sự
là một cuộc sống sung mãn không?
Các cuộc nghiên cứu cho tôi thấy rằng
buồn là một cảm xúc có lợi. Nỗi buồn thường bị lẫn lộn với trầm cảm. Thật ra,
khác với sự trầm cảm, buồn là một phần tự nhiên của cuộc sống và thường gắn liền
với những kinh nghiệm mất mát hay khổ đau. Tôi cảm nhận được “tính người” của
Chúa Giêsu khi, đứng trước nỗi khổ đau tột cùng của thập giá, Ngài đã chia sẻ với
các môn đệ thân tín của Ngài: “Thày buồn muốn chết được”!
Theo các chuyên gia tâm lý, buồn là một cảm xúc sống động xuất hiện để nhắc
nhở chúng ta về những điều chúng ta cho là quan trọng và mang lại ý nghĩa cho
cuộc sống. Các nhà tâm lý nói rằng cảm xúc nói chung là tấm gương soi để con
người nhận ra con người thật của mình, dễ dàng chấp nhận chính mình hơn và đồng
thời cũng dễ dàng cảm thông với người khác hơn. Trái lại, tìm cách dẹp bỏ cảm
xúc có thể khiến chúng ta bị trầm cảm và co cụm trong bản thân (Lisa Firestone
Ph.D, The Value of Sadness, Psychologytoday 30/7/2015).
Tôi có nhiều nỗi buồn. Nhưng buồn nhứt là mỗi khi nhìn về Việt Nam. Buồn
không phải vì nhớ nhà hay xa quê hương cho bằng cứ mỗi ngày lại nghe nói đến
cơn bệnh “vô cảm” đang làm cho tâm hồn người Việt Nam hiện nay chết dần chết
mòn. Người bên ngoài nhìn về Việt Nam thường nói đến bệnh vô cảm đã đành, mà
trong nước những ai còn có chút thao thức, cũng phải lên tiếng báo động về căn
bệnh này. Cách đây không lâu, tôi có đọc được một bài luận văn của một học sinh
lớp 9 của trường trung học Chu Văn An, Hà Nội. Sau đây là phần mở đề của bài luận
văn: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại
ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một
trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải
tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn, làm sao cho thật giống con người để giúp con người được
nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều:
Đó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể
tạo ra một con chíp “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như
con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung
quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng
lại ở một cá nhân, mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội - bệnh vô cảm.
Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không
căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê,
không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót,
không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của
một cỗ máy?
Theo em học sinh này, “vô cảm” “là một căn bệnh lâm sàng mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động
nhưng trái tim lại hoàn toàn băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu
hiểu được nỗi đau, tình cảm của người khác? Người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi
ích của riêng mình mà thôi. Nếu không vô cảm, tại sao các cô giáo ở trường mầm
non lại nhẫn tâm giật tóc, đánh đập, bịt miệng các cháu bé còn ngây thơ, nhỏ tuổi?
Tại sao một người còn chưa qua tuổi trưởng thành lại vô tư chém giết cả nhà người
ta để lấy của cải? Xa hơn nữa là các công chức bình thản ăn tiền ủng hộ, trợ
giúp những số phận đau thương, bất hạnh của người dân để kiếm lợi cho riêng
mình. Và còn nhiều, còn nhiều hành động xấu xa hơn nữa...Tất cả những điều vô
lương tâm ấy đều xuất phát từ căn bệnh vô cảm mà ra.”
Đi tìm nguyên nhân của căn bệnh này, em học sinh mà cô
giáo nhận xét là “có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn
này”, cho rằng chính vì “không cảm nhận
được tình yêu thương mà người ta ngày càng lạnh giá. Một phần nữa cũng là do xã
hội hiện đại quá bận rộn và đòi hỏi con người phải làm việc, làm việc và làm việc,
mà bỏ quên thời gian để trao nhau hơi ấm của tình thương, để ươm mầm cảm xúc”.
Em học sinh này hoàn toàn không đá động gì đến nguyên nhân sâu xa nhứt là cái
chế độ vô đạo đã bóp nghẹt mọi giá trị đạo đức và tạo ra cái lỗ hổng đạo đức hiện
nay trong xã hội. Tôi rất thông cảm với em. Tầm nhìn giới hạn không cho phép em
nhìn xa hơn và sâu hơn. Sống trong một chế độ mà tự do suy nghĩ và ngôn luận
hoàn toàn bị bóp nghẹt thì đối tượng phân tách của em không thể là cái chế độ
toàn trị ấy.
Nghĩ về “quyền được buồn” như ông Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
nêu lên, tôi cho rằng chính vì chế độ cộng sản đã cướp đi cái “quyền được buồn”
của người dân mà xã hội Việt Nam hiện nay phải rơi vào tình trạng “vô cảm”.
Sinh hoạt của những người bạn còn trong nước được đưa lên các “meo đàn” và
trang mạng thường cho tôi thấy hình ảnh của bàn nhậu, chai rượu, lon bia...Người
ta “nhậu” để “giải sầu”, để chôn chặt hay đè bẹp nỗi buồn và dĩ nhiên, nói như một người bạn của tác giả “Người buôn
gió”, để “tu” và chỉ để làm tiền mà thôi. Còn người khác có sống chết, có bị
đàn áp, có đói khổ...cũng mặc kệ họ.
Tôi “buồn” mỗi khi nhìn thấy những hình ảnh như thế.
Nhưng nỗi buồn ấy cũng không ngừng nhắc nhở tôi, như em học sinh trường trung học
Chu Văn An đã kêu gọi: “Đừng để điều đó xảy
ra mà hãy đấu tranh để giành lại phần “người”, giành lại “trái tim” mà Thượng Đế,
mà tạo hóa đã ban cho chúng ta!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét