Thứ Tư, 9 tháng 9, 2015

Trao tặng là chìa khóa của thành công




Chu Thập
15.11.11

Tuần qua, tôi đọc được hai lá thư gây nhiều cảm xúc.
Trước hết là lá thư gởi cho em bé thứ 7 tỷ vừa mới chào đời hôm thứ Hai 31 tháng 10 vừa qua. Tác giả của lá thư là linh mục Federico Lombardi, phát ngôn viên của Tòa thánh La mã. Đây quả là một lá thư gây nhiều ngạc nhiên lý thú. Thông thường phát ngôn viên của một chính phủ chỉ đưa ra tuyên ngôn về những chuyện đại sự. Không ngờ, linh mục Lombardi lại chú ý đến con người nhỏ bé và vô danh nhứt hành tinh này.
Lá thư mở đầu như sau: “Bé thương, ta không biết bé là trai hay gái, là người Ấn độ hay Trung quốc, sinh trong một thành phố lớn hay một làng quê hẻo lánh hoặc chào đời trong một cánh đồng hoang hay trong một căn nhà bằng tuyết, trên một hoang đảo hay trong một túp lều nơi trại tỵ nạn.”
Tác giả viết tiếp: “Ta không biết con có khỏe mạnh, đau yếu hoặc khuyết tật không. Ta không biết cha mẹ con có mặt ở đó để ôm con vào lòng không hay chỉ có mỗi một mình mẹ con. Ta không biết người ta có nói rằng con và những người cùng tuổi với con là thừa thãi hay chưa đủ không. Nhưng ta không quan tâm đến điều đó.”
Người ngỏ lời với em bé thứ 7 tỷ này nói rằng mình chỉ quan tâm cho cuộc sống của em trong thế giới ngày nay: một thế giới “hơi phức tạp và ít niềm nở đối với một số người”.
Theo linh mục Lombardi, thế giới này đã không được chuẩn bị một cách đúng đắn và người ta đang tự hỏi trong tương lai thế giới này sẽ như thế nào.
Ám chỉ đến những chuyện “đại sự” như hội nghị Thượng đỉnh vừa qua của khối G20, tức 20 quốc gia có kỹ nghệ tiến bộ nhứt thế giới, tác giả viết: “Các vị nguyên thủ của những nước giàu mạnh nhứt ngồi vào bàn hội nghị; họ vò đầu bứt tóc để tìm ra phương thế tiến bộ mà không tạo ra những tai họa khác.
Chúng tôi cầu mong rằng khi con mỉm cười thì sẽ có người cười lại với con và khi con khóc sẽ có người vỗ về con. Cầu mong cho con được cắp sách đến trường và không phải đói khát. Cầu mong cho có người biết khôn ngoan trả lời những câu hỏi của con và nâng đỡ con trong những sáng kiến của con cũng như giúp con nhận lấy trách nhiệm của mình.
Chúng tôi cũng cầu mong cho con biết yêu thương tha nhân, trưởng thành, làm việc và sống với gia đình con, cùng với bao bạn hữu, trong một dân tộc và một thế giới tự do và hòa bình. Chúng tôi cầu mong cho con có thể hiểu được rằng cuộc sống của con vẫn có ý nghĩa bên kia cái chết”.
Nhưng kết thúc lá thư, linh mục Lombardi nhắn nhủ với đứa bé thứ 7 tỷ này rằng tương lai cũng tùy thuộc vào nó, nó cũng phải phấn đấu, lao nhọc và đến lượt nó cũng hãy niềm nở đón tiếp đứa bé thứ 8 tỷ sẽ có mặt trên trái đất này. (x. Zenit 10/11/11)
Đọc lá thư trên, tôi không thể không nghĩ đến thiên tài Steve Jobs, đồng sáng lập viên, chủ tịch và giám đốc điều hành của công ty Apple, vừa qua đời hôm 5 tháng 10. Tôi nghĩ đến thiên tài này là bởi vì ông là người đã tự mình vượt qua được một tuổi thơ bất hạnh, những khó khăn chồng chất trong cuộc sống để không ngừng vươn lên, thành thân và thành nhân. Ông đã nhận lấy trách nhiệm của mình và làm chủ được định mệnh của mình.
Tôi chỉ tiếc có mỗi một điều là: trong tiểu sử của Steve Jobs, có thể vì ông là một con người quá kín đáo chăng, nên không nghe ai nhắc đến những họat động từ thiện của ông. Di sản của ông là vô số những phát minh mới trong kỹ thuật truyền thông cũng như tinh thần phấn đấu và lạc quan yêu đời. Nhưng giá như có một Sáng hội từ thiện nào đó mang tên ông như trường hợp của ông bà Bill và Melinda Gates, người đã hiến tặng đến hơn ba phần tư tài sản của mình cho các họat động từ thiện, thì chắc chắn tên tuổi của ông sẽ sáng ngời hơn.
Vượt qua được một tuổi thơ bất hạnh, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc sống của mình, trở thành một con người hữu dụng cho xã hội: không phải đứa bé nào cũng có đủ điều kiện và nghị lực để vượt khó như Steve Jobs.Tôi nghĩ đến hàng triệu triệu trẻ em mỗi buổi tối phải đi ngủ với cái bụng trống.Tôi nghĩ đến vô số trẻ em phải lê lết hằng bao nhiêu cây số để đến một trại tỵ nạn, để sống cả tuổi thơ trong đó và để không nhìn thấy một tương lai nào bên kia hàng rào kẽm gai. Tôi nghĩ đến bao nhiêu trẻ em ở các nước nghèo không được cắp sách đến trường và bị buộc phải lao động với đôi tay còn quá bé nhỏ yếu đuối...Và dĩ nhiên, tôi cũng nghĩ đến vô số những trẻ em trên thế giới này, dẫu được sinh ra trên nhung lụa, nhưng lại chứng kiến một gia đình đổ vỡ, phải mang nhiều chấn thương đến độ khó trưởng thành một cách bình thường và thành công trong cuộc sống. Một Steve Jobs hay một Philip Roesler, đứa trẻ mồ côi Việt nam hiện là phó thủ tướng Đức, nếu có thành công, đỗ đạt và có một địa vị cao trong xã hội, không chỉ nhờ sức phấn đấu riêng của mình, mà còn nhờ sự bảo bọc của những cha mẹ nuôi tốt.
Cần có những bàn tay nhân ái để vá lại những mãnh đời vỡ vụn. Cần có những tấm lòng quảng đại để cưu mang, vỗ về và đỡ nâng những tâm hồn thơ dại. Đó là nội dung chính của lá thư từ Hội Từ Thiện “Salvation Army” (Đạo binh Cứu độ). Hằng năm, Hội Từ Thiện của Giáo hội Tin lành này vẫn gởi đến cho tôi một lá thư kêu gọi sự quảng đại đóng góp để giúp đỡ những người túng thiếu cơ cực, đói ăn và cần được giúp đỡ trên khắp thế giới.
Năm nay, lá thư kể lại câu chuyện đáng thương của Sophie. Và đây là một câu chuyện có thật. Khi Sophie vừa được vài tháng tuổi thì mẹ em qua đời. Một thời gian sau, cha em tái hôn. Chuyện mẹ ghẻ con chồng là chuyện xưa như trái đất. Sophie không có thể làm bất cứ điều gì để làm hài lòng người mẹ kế. Ồn ào cũng bị mắng. Yên lặng cũng bị hạch xách. Đi học về trễ cũng bị la rầy, mà về nhà sớm quá cũng chẳng được tha. Thêm vào đó, cha em ngày càng tỏ ra vũ phu.
Mỗi năm đến mùa Giáng sinh, mỗi khi có bạn bè hay người thân đến thăm, người mẹ ghẻ đóng kịch bằng những cử chỉ thân thiện và săn sóc đối với Sophie. Nhưng khi ai về nhà nấy, thì bức tranh của một gia đình đầm ấm cũng tan biến.
Sophie nói rằng dưới cùng một mái nhà, nhưng có đến hai gia đình: họ, tức ba em, mẹ kế và các em cùng cha khác mẹ là một gia đình; còn em là một gia đình khác. Em nói rằng em chỉ cần được “thích” thôi, chứ đừng nói đến được yêu thương.
Cuộc sống càng lúc càng nặng nề đến độ khi vừa được 15 tuổi, em quyết định bỏ nhà ra đi. Trong cuộc sống lang thang trên hè phố, Sophie tình cờ gặp một nhân viên của Hội Salvation Army. Người này có một cô con gái cùng tuổi với Sophie tên là Liz. Ngày nọ Liz hỏi Sophie: Ngày lễ Giáng Sinh tới, bạn sẽ đi đâu? Sophie buồn bã trả lời: “Chẳng đi nơi nào cả. Tôi biết đi đâu bây giờ.”
Liz liền mời Sophie về nhà mình trong Ngày Giáng Sinh. Đây là một ngày của gia đình không có bạo động, không có gấu ó, mà chỉ có tiếng cười, tình thương và niềm vui.
Liz chỉ làm một cử chỉ nhỏ, nhưng đã thực sự có sức thay đổi cuộc đời của Sophie, Hội Salvation Army cho biết: sau 18 năm chờ đợi, cuối cùng Sophie đã cảm nghiệm được sự chia sẻ niềm vui trong ngày Giáng Sinh với một gia đình thực sự yêu thương và quan tâm đến em. Người đại diện của Hội Salvation Army tại Úc đại lợi viết: “món quà lớn nhứt là món quà không thể gói hay mua được.”
Kể từ đó, Sophie đã cương quyết tìm kiếm một tương lai tốt đẹp chứ không tự giam hãm trong quá khứ. Với sự giúp đỡ của Hội Salvation Army, em đã quyết định đi học lại và hướng đến các hoạt động phục vụ giới trẻ.
Chỉ cần có một bàn tay chia sẻ, một tấm lòng quảng đại và cảm thông, thì ở đâu đó sẽ có một cuộc đời đang bị nhận chìm trong tăm tối và thất vọng được vực dậy. Thế giới không bao giờ thiếu thốn của cải. Thiếu chăng là thiếu tình thương và sự chia sẻ.
Các vị nguyên thủ quốc gia và những cái “đầu lớn” của thế giới không ngừng gặp nhau để tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề lớn của nhân loại trong đó nổi cộm nhứt vẫn là nghèo đói và những hậu quả của nghèo đói. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lại khiến cho các nhã lãnh đạo thế giới gia tăng các cuộc “hội họp”. Hết hội nghị thượng đỉnh này đến hội nghị thượng đỉnh khác. Nhưng đâu lại vào đó. Dường như những “chữ bự” vẫn cứ là những “chữ chết” trong các văn kiện được ký kết. Tháng 9 năm 2000, tại “Hội nghị Thuợng đỉnh Thiên kiên kỷ”, 193 quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc và ít nhứt 23 tổ chức quốc tế đã đặt bút ký tên vào một tuyên ngôn thường được gọi là “Các Mục tiêu của Thiên niên kỷ”. Một trong 8 mục tiêu đó là vào năm 2015, tình trạng nghèo đói cùng cực trên thế giới phải được xóa bỏ. Năm vừa qua, một Hội nghị Thượng đỉnh lại được tổ chức để nhìn lại những bước tiến trong việc thực thi các mục tiêu này và các nguyên thủ quốc gia chỉ biết nhìn nhau để thở dài và thú nhận rằng “còn lâu” mục tiêu đầu tiên trong 8 mục tiêu đó, tức xóa đói giảm nghèo, mới có thể đạt đựơc vào năm 2015: khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng rộng mà giữa giàu nghèo trong cùng một quốc gia lại ngày càng có kích thước của vực thẳm.
Thì ra, giải pháp cho vấn đề không chỉ là chính trị, kinh tế và tài chính, mà thiết yếu là liên đới, tình thương và sự chia sẻ. Có thể, các vị nguyên thủ quốc gia, các nhà kinh tế, các chính trị gia, các nhà thảo kế hoạch...không đến nỗi “ngu” hay “đui” để không nhận ra vấn đề đâu. Nhưng nói đến tình liên đới và tình thương là đụng đến “hầu bao” của mình. Khi tỷ phú Warren Buffet, nhà tài phiệt địa ốc đã hứa trao tặng hầu hết tài sản của mình cho các công cuộc từ thiện, kêu gọi những người giàu có tại Hoa kỳ đóng thuế nhiều hơn để giúp cho người nghèo, ai cũng “giẫy nẩy” lên.
Hãy thử tưởng tượng: nếu trên thế giới này, nhứt là tại các nước nghèo như Việt nam, tất cả những người giàu có chỉ cần bỏ ra mười phần trăm tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo, thì chắc chắn bộ mặt của thế giới sẽ thay đổi tức khắc chứ không cần phải đưa ra bất cứ “mục tiêu thiên niên kỷ” nào cả.
Tôi tin rằng tương lai của thế giới thuộc về Tình Thương, mà cụ thể là chia sẻ và trao tặng, chứ không thuộc về tiến bộ kỹ thuật hay kinh tế và tài chính, mà nhứt là lại càng không nằm trong tay của các chính trị gia.
Trong tập sách mỏng có tựa đề “Succes is in Giving” mà tôi tạm dịch là “chìa khóa của thành công nằm trong sự trao tặng”, ông Wesley Harris, một cựu Ủy viên của Hội Salvation Army, Úc đại lợi, đã khẳng định rằng “tinh thần trao tặng là chìa khóa của thành công”. Tiền bạc dĩ nhiên là thứ thiết thực nhứt để trao tặng. Nhưng trong tập sách, ông Harris cũng nói đến vô số những món quà được trao tặng mà không tốn một đồng xu như phục vụ, tôn trọng, lắng nghe, thời gian, sự quan tâm, nâng đỡ, cảm thông và nhứt là sự tha thứ...Ai cũng biết rằng chẳng có ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng.
Phần tôi, tôi chỉ muốn gởi cho “em bé bảy tỷ”vài dòng:
“Bé yêu dấu, xin lỗi bé vì tôi lại phải dùng một con số để gọi bé. Bé sinh ra cách tôi hơn nửa thế kỷ. Tôi tin tưởng bé sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn tôi. Bởi vì chắc chắn những gì cần thiết để sống hôm nay khác xa ngày xưa rất nhiều. Nhiều khi tôi tự hỏi làm sao những người thuộc thế hệ chúng tôi lại có thể khôn lớn thành người trong hoàn cảnh nghèo đói quê mùa lạc hậu như lúc đó. Nhưng bây giờ, tôi hiểu ra, tôi đã có đủ nghị lực để đương đầu với nghịch cảnh, với đau khổ và nhứt là với cô đơn nhờ ở những điều rất nhỏ: từ miếng bánh bẻ đôi của thằng bạn chăn trâu đến cái áo “bính” của ông anh kề, từ một người bạn chịu khó ngồi nghe tôi ca cẩm đến chai nước mắm ông bạn già khệ nệ đem cho...
Cho nên, bé ơi, đừng lo, ngày nào còn có người nghĩ đến bé thì ngày đó vẫn là ngày đẹp trời. Mà tôi chắc chắn sẽ là một trong những người đó.”





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét