Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

Quyền lực và cảm thông


Chu Thập
13.3.15

Tôi chưa từng cầm súng đánh giặc. Cả đời tôi chưa bắn một viên đạn nào vào bất cứ ai. Tất cả những cảnh bắn giết, đâm chém hay chiến tranh nói chung, đều đi vào tâm cảnh của tôi xuyên qua phim ảnh, tài liệu lịch sử cũng như hư cấu. Có những cảnh, mặc dù hoàn toàn được dàn dựng lại, cũng vẫn rùng rợn và hãi hùng đối với tôi. Sự sống con người, dù là người lương thiện hay tên độc ác, một khi bị cướp đi, dường như không để cho người khác được yên. Hình như ánh mắt vô hình của người đó vẫn mãi nhìn vào tận đáy thẳm lương tâm của ai đó.
Mậu Thân năm 1968, đúng ngày 1 tháng Hai, giữa thủ đô Sài Gòn, trong chiến dịch càn quét tàn binh cộng sản sau vụ tổng tấn công, tướng Nguyễn Ngọc Loan, người đang nắm trong tay 3 cơ quan an ninh quan trọng là Cục An ninh Quân đội, Tổng nha Cảnh sát Quốc gia, Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo, đã dùng khẩu súng lục “38 Special Smith&Wesson” để xử tử tên đặc công Việt cộng Nguyễn Văn Lém có biệt danh Bảy Lốp. Cuộc xử tử đã được nhiếp ảnh gia Eddie Adams của hãng thông tấn AP thu hình. Chỉ trong tích tắc đồng hồ, bức ảnh đã được truyền đi khắp thế giới. Tướng Loan nhận được hỗn danh “tên sát nhân man rợ”. Năm 1969, nhiếp ảnh gia Adams nhận được giải thưởng Pulitzer. Kể từ đó, tên tuổi của Tướng Loan đã bị vùi dập trong đống tro của tủi nhục và ít hay nhiều, bức hình ấy đã góp phần làm sụp đổ Miền Nam Việt Nam. Về sau, nhiếp ảnh gia Adams đã viết trên báo Time: “Ông tướng đã giết tên Việt Cộng. Tôi đã giết ông tướng bằng chiếc máy ảnh của tôi. Các bức ảnh vẫn còn là vũ khí hùng mạnh nhứt trên thế giới. Người ta tin ở những bức ảnh, bởi vì cho dẫu không chút lèo lái, chúng vẫn nói dối. Những bức ảnh chỉ nói lên một nửa sự thật. Điều mà bức ảnh (tướng Loan xử tử người đặc công Việt Cộng) không nói lên là: “ Bạn sẽ làm gì nếu bạn ở vào không gian và thời gian của ông tướng vào lúc đó và bạn đã bắt được tên gian ác sau khi hắn đã hạ sát một, hai hoặc ba ngưới lính Mỹ?” Nhiếp ảnh gia Adams đã lên tiếng xin lỗi Tướng Loan và gia đình của ông vì những thiệt hại mà bức ảnh do ông chụp được đã gây nên cho uy tín của ông tướng này.
Có lẽ bất cứ người dân Miền Nam chống cộng nào cũng đều bày tỏ một sự cảm thông như thế đối với Tướng Loan. Tên Việt Cộng Bảy Lốp không chỉ hạ sát một, hai hoặc ba người lính Mỹ như nhiếp ảnh gia Adams đã giả định. Ông ta đã sát hại không biết bao nhiêu thường dân vô tội. Tướng Loan chắc chắn đã nghĩ đến máu của những người ấy khi cầm khẩu súng lục trên tay và nhìn vào bộ mặt gian ác của tên Bảy Lốp. Nhưng khổ nỗi, thế giới đã không tự đặt mình vào địa vị của Tướng Loan để hiểu được tâm trạng của ông trong lúc đó cũng như không biết bao nhiêu người dân Miền Nam Việt Nam đã phải hứng chịu hay chứng kiến không biết bao nhiêu hành động tàn sát dã man của những người cộng sản.
Thế giới bên ngoài đã không thể có cái nhìn của phần lớn người Việt Nam lúc đó. Đối với thế giới, cầm súng xử tử một người, dù là một tên ác ôn côn đồ mà không thông qua một phiên tòa hợp pháp nào, là một hành động dã man.
Một hành động xem ra rất chính đáng của Tướng Loan vào lúc đó mà còn bị thế giới lên án, huống chi là những cảnh hành quyết man rợ mà các tổ chức Hồi giáo cực đoan như “Quốc gia Hồi giáo” ở Trung Đông đang thực hiện. Nhưng thế giới không chỉ lên án những hành động man rợ, mà còn kêu gọi chấm dứt bất cứ hành động nào xúc phạm đến sự sống con người. Thế giới ngày càng nhận ra được tính thánh thiêng sự sống con người.
Sự tiến bộ của nhân loại không hẳn chỉ được đo lường bằng văn minh vật chất, mà thiết yếu bằng ý thức ngày càng gia tăng về dân chủ và nhân quyền, trong đó quan trọng nhứt là quyền được sống. Bất cứ hành động xúc phạm nào đến sự sống con người, dưới bất cứ hình thức nào, cũng đều bị xem là ghê tởm. Chính vì thế mà ngày nay trên thế giới đã có khoảng 160 quốc gia hoặc đã hoàn toàn bãi bỏ án tử hình hoặc nếu còn duy trì thì cũng không thi hành bản án. Một số nhỏ các quốc gia duy trì án này đối với các tội phạm chiến tranh và nhiều nước khác từ 10 năm qua đã không còn thi hành án này. Theo tổ chức “Harm Reduction International” (một tổ chức kêu gọi  bãi bỏ án tử hình) 2 phần 3 các nước chỉ còn duy trì án tử hình vì tội buôn bán ma túy. Nhưng không phải tất cả các nước này đều thi hành bản án. Tính cho đến năm 2012, chỉ có từ 12 đến 14 nước thi hành án tử hình đối với những người buôn bán ma túy. Trung Quốc, Iran, Việt Nam, Á Rập Saudi, Singapore và Mã Lai là 6 nước có tỷ lệ xử tử những người buôn bán ma túy cao nhứt.
Dù vậy, theo một số chuyên gia, không có bằng chứng nào cho thấy án tử hình làm giảm tội ác. Xuất hiện trong chương trình “Fact Check” (kiểm chứng sự kiện) của Đài ABC Úc Đại Lợi, Ông Jeffrey Fagan, một giáo sư luật tại Đại học Columbia, Hoa Kỳ, nói rằng không có bằng chứng nào cho thấy án tử hình hạ giảm tội ác. Theo ông, các cuộc hành quyết chỉ thỏa mãn đòi hỏi báo thù mà thôi.
Lập trường của Giáo sư Fagan cũng được hầu hết các nhà nghiên cứu về tội phạm chia sẻ. Theo một cuộc nghiên cứu do Hội “American Criminology Society” (chuyên nghiên cứu về tội phạm) thực hiện hồi năm 2009, có trên 88 phần trăm những nhà chuyên môn trong lãnh vực này không hề tin rằng án tử hình hạ giảm tội ác.
Một số chuyên gia trong lãnh vực này đã làm một cuộc so sánh giữa Singapore và HongKong. Theo cuộc nghiên cứu, vào giữa thập niên 1990, Singapore được xếp vào hạng những nước có tỷ lệ thi hành án tử hình cao nhứt thế giới. HongKong đã bãi bỏ án tử hình vào năm 1993. Những người thực hiện cuộc nghiên cứu kết luận rằng “trong 35 năm qua, nghĩa là kể từ năm 1973, con số các vụ sát nhân tại hai thành phố này giống nhau”. Điều này có nghĩa là án tử hình xem ra không ảnh hưởng đến sự sụt giảm của tội ác. Nếu người ta chỉ nhìn vào hiện trạng xã hội của riêng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì điều này lại càng đúng hơn. Dù cho án tử hình vẫn còn được duy trì và thi hành, dù cho Việt Nam có được xếp vào 6 nước có tỷ lệ thi hành án tử hình cao nhứt thế giới, tội ác dường như lại gia tăng theo tỷ lệ thuận với việc thi hành án này. Ai cũng thấy những người cộng sản Việt Nam đang diễn một bi hài kịch tồi tệ nhứt: chính những tên tội đồ lại rêu rao ngăn ngừa tội ác! Chính những tên tham nhũng lại hùng hổ mở chiến dịch bài trừ tham nhũng! Xã hội ngày càng băng hoại, lỗ hổng đạo đức ngày càng bị khoét sâu, tội ác ngày càng gia tăng...Liệu có thể cải tạo xã hội bằng cách bắn bỏ vài “con cá nhỏ” hay những con tép riu do chế độ tàn ác sản sinh và chỉ sống nhờ vào một chút cặn bã do những tên đồ tể từ trên thải ra không?
Hình ảnh của hai tử tội người Úc Andrew Chan và Myuran Sukumaran hiện đang trong cơn hấp hối từng ngày trong hành lang tử thần ở Nam Dương đã gợi lên trong hầu hết người dân Úc trong đó có tôi sự thương cảm. Dĩ nhiên, trước hết tôi không thể không nghĩ đến không biết bao nhiêu nạn nhân của ma túy trong xã hội Úc hiện nay. Tôi rất thông cảm với bà mẹ Úc nào đó ở Melbourne có người con gái 17 tuổi chết tất tưởi vì sử dụng ma túy, cho nên mới ủng hộ việc hành quyết hai tử tội này. Nhiều gia đình Việt Nam mà cuốn phim tài liệu có tựa đề “Once upon a time in Cabramatta” đã khơi lại vết thương không bao giờ lành do tệ nạn ma túy gây ra, có lẽ cũng chỉ mong cho những kẻ phạm tội ác phải đền tội. Nhưng tôi không thể không nghĩ đến nỗi đau mất con của bà mẹ của người thanh niên Nguyễn Tường Vân, bị Singapore treo cổ ngày 2 tháng 12 năm 2005 chỉ vì mang trong mình đúng 396.2gr “heroin”.
Và dĩ nhiên, cứ mỗi lần nhìn nỗi đau mà không bút mực nào có thể diễn tả được của hai bà mẹ của hai tử tù Chan và Sukumaran, cũng như hầu hết mọi người dân Úc và Quốc hội Úc, tôi chỉ biết thầm mong sao cho Tổng thống Joko Widodo của Nam Dương mở lượng ân xá cho họ.
Tôi rất khâm phục Tổng thống “Jokowi”, tên gọi thân quen  mà  dân chúng Nam Dương vẫn thường dành cho ông. Xuất thân từ một gia đình nghèo, ông đã cố vươn lên và chứng minh cho người dân Nam Dương thấy rằng với ý chí con người có thể “vượt qua số phận của mình”. Cùng với thông điệp lạc quan này, tân tổng thống Nam Dương cũng nêu cao tinh thần phục vụ qua cung cách và cuộc sống bình dân của ông.
Nhưng sự kiện ông ra lệnh biểu dương tối đa lực lượng của Nam Dương trong việc áp tải hai tử tội Úc ra đảo Nusakambangan để chờ bị hành quyết khiến tôi thất vọng. Có cần phải sử dụng máy bay chỉ dành riêng cho tổng thống, có cần phải có cả một lực lượng cảnh sát hùng hậu, có cần phải cho chiến đấu cơ và tàu chiến...biểu dương lực lượng trong việc đưa hai tử tội đến chỗ hành quyết không?
Với dân số đứng hàng thứ tư trên thế giới, với tài nguyên thiên nhiên phong phú, với một nền kinh tế đang lên, Nam Dương hiện là thành viên của Câu lạc bộ gồm 20 nước có nền kinh tế mạnh nhứt thế giới. Là một nước Hồi giáo lớn nhứt thế giới, Nam Dương có lý do để tự hào là một nước mạnh.
Nhưng liệu đó có phải là sức mạnh đích thực mà một quốc gia hay một nguyên thủ quốc gia cần phô trương không?
Theo dõi những diễn biến trong tư cách của hai tử tù Chan và Sukumaran trong gần 10 năm qua và nhứt là lắng nghe chứng từ của các tù nhân cũng như những người đã từng tiếp xúc với họ, tôi thấy họ cũng đã cố gắng từng ngày để  “vượt qua số phận” và chứng tỏ sức mạnh của sự hoán cải. Đây là điều mà người tử tù Sukumaran đã muốn nhắn gởi cho tổng thống Jokowi. Anh đã vẽ chân dung của vị nguyên thủ quốc gia Nam Dương và ký tên kèm theo hàng chữ “con người có thể thay đổi”(people can change).
Tôi rất tự hào được làm công dân Úc. Không phải vì Úc Đại Lợi giàu mạnh, mà vì một sức mạnh mà sự thịnh vượng vật chất không đương nhiên mang lại. Sức mạnh đó đã được biểu lộ qua những cuộc thắp nến cầu nguyện cho hai tử tù Chan và Sukumaran. Tôi vẫn ghi nhớ mãi hình ảnh của tất cả các dân biểu và thượng nghị sĩ Liên bang tay cầm nến, giữ giây phút thinh lặng để không chỉ nhắn gởi đến chính phủ Nam Dương thỉnh cầu ân xá cho hai người tử tội, mà còn bày tỏ sự cảm thông và nhứt là sự tôn trọng đối với mạng sống con người.
Nếu phải ghi nhớ bước tiến lớn nhứt của nhân loại  thì tôi nghĩ bước tiến đó phải là ý thức về sự thánh thiêng của sự sống con người. Và nếu phải đi tìm sức mạnh đích thực cho thế giới ngày nay, tôi không thể không nghĩ đến sự cảm thông.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét