Chu Thập
1.7.11
Năm nào cũng vậy, cứ vào tháng
6, mùa “đại hạ giá” giữa năm, thấy người ta nô nức đi sắm sửa, tôi cũng chen
chân đi cho vui. Nhưng lần nào tôi cũng xách xe không về nhà. Hôm rồi, thấy nhà
tôi và tôi đang đứng “ngẩn ngơ” trước những món hàng “xịn” trong một cửa hàng
Myer, một bà Úc tốt bụng xáp lại gợi chuyện và khuyên chúng tôi nên đến cửa
hàng Colorado bên cạnh, vì ở đó đang hạ giá tới 70 phần trăm. Tưởng bở, chúng
tôi chạy vội đến đó. Trời mùa đông lạnh vậy mà vào đó cũng nghẹt thở vì đông
người. Nhưng đến khi sờ được những món mình thích, tôi mới tá hỏa tam tinh: đã
bớt đến 5, 7 chục phần trăm mà tôi vẫn thấy cái giá ấy chỉ dành cho những dân
chơi hàng hiệu mà thôi. Không thuộc giai
cấp mà chính phủ Lao động xếp vào hạng “giàu
có”, chúng tôi cũng đành sờ qua ngắm lại cho ra vẻ dân sành điệu rồi lặng lẽ
chuồn đi cho khỏi mất mặt. Rốt cục, đi hết cửa hàng này sang cửa hàng khác cho
giãn gân giãn cốt, nhìn ngắm thiên hạ náo nhiệt, rồi về. Xét ra chẳng mất mát gì
mà còn được một bữa đi dạo, nhìn đời, nhìn người cũng vui!
Thực ra, tôi không mua được
món nào không phải vì tôi nghèo kiết đến độ chỉ biết mua “hàm thụ” bằng mắt ,
mà vì đi phố mà lòng tôi lúc nào cũng ngoái lại cái tủ quần áo ở nhà. Khai ra
thì chắc thế nào cũng bị chê cười, nhưng quần áo tôi đang mặc hầu như chẳng có
cái nào dưới 10 tuổi. Tôi có bà con với “kẹo kéo” một phần, còn phần lớn tại quần
áo của bọn “đế quốc” nó không chịu rách. Có những chiếc áo sơ mi tôi mua nhân
chuyến đi Mỹ cách đây hơn 20 năm vẫn còn lành lặn và xem ra cũng chẳng lỗi thời
chút nào. Vài bộ đồ vía để mỗi năm “tròng” vô một lần thì làm sao “sứt chỉ đường
tà” để mà sắm cái mới. Cũng may là “vòng giữa” của tôi không thay đổi mấy cho
nên tứ thời bát tiết lúc nào tôi cũng “diện” vào được.
Thành ra mỗi lần đi phố về,
không mua sắm được gì, tôi hơi có cái “mặc cảm” của một người không đóng góp
tích cực cho kinh tế nước nhà. Vào lúc kinh tế suy trầm, phải có người mua kẻ sắm,
thì đồng tiền mới lưu chuyển, cửa hàng mới có kẻ ra người vào và bộ mặt kinh tế
mới sáng sủa ra. Chớ cứ khư khư ôm cái hầu bao và hà tiện hà tặn như tôi thì
làm gì kinh tế lên được. Thời ông Kevin Rudd còn làm thủ tướng, chính phủ Úc đã
chẳng tháo khoán ngân quĩ quốc gia lì xì cho các cụ cao niên để các cụ có “cơ hội”
giúp cho kinh tế “lên” đó sao?
Nhưng thôi, tôi chẳng phải là
một kinh tế gia để mà bàn tính hơn thiệt về chuyện mua sắm. Lý do khiến tôi phải
đắn đo và chi li trong việc mua sắm quần áo là vì tôi cứ nghĩ đến những người
thiếu ăn thiếu mặc tại các nước nghèo, trong đó có không biết bao nhiêu bà con
ruột thịt của tôi. Hồi mới bỏ thuốc lá, tôi không những thấy sức khỏe của mình
được phục hồi mà còn vui gấp bội vì mỗi tháng tôi để dành được không dưới ba
trăm Úc kim để giúp cho một hai gia đình người thân ở quê nhà có thể sống được
cả tháng.
Bớt một chút tiêu xài để cảm
thấy được “tự do thanh thoát” hơn đã đành, mà cũng để cảm thông hơn với những
người đang thiếu thốn: đó là lý do khiến tôi cứ “đi không rồi lại về không”!
Tuần vừa qua, nhân Tuần lễ Tỵ
nạn do Liên hiệp quốc tổ chức, đài truyền hình SBS cho chiếu phóng sự có tựa đề
“Go
back to where you came from” (trở
về nơi bạn đã ra đi). Hình ảnh sinh hoạt trong một số trại tỵ nạn và cuộc sống
khốn khổ tại một số quốc gia được ghi lại trong phóng sự xem ra chẳng nhằm nhò
so với kiếp đọa đày trong các chế độ cộng sản, cuộc vượt biên đi tìm tự do
trong cái chết và những ngày vất vưởng trong một số trại cấm của nhiều người Việt
nam chúng ta. Nhưng đối với 6 người tiêu biểu cho dân Úc được tuyển chọn để đi
ngược lại cuộc hành trình tìm tự do của người tỵ nạn “thời nay”, thì quả thực
đây hẳn phải là một kinh nghiệm để đời. Những phát biểu ở cuối bài phóng sự đã
nói lên sự “đổi đời” của những người này. Ít ra, giờ đây, họ biết cảm thông hơn
và hiểu được lý do tại sao có những người dám bỏ lại tất cả, hơn nữa, liều mạng
sống của mình để mua lấy hai chữ tự do. Hình ảnh chiếc thuyền tỵ nạn bị đánh
vào ghềnh đá của Christmas Island, vỡ tan tành và kéo theo bao nhiêu người xuống
lòng biển dạo tháng 12 năm ngoái, không còn là một vấn đề “tầm trú” để mang ra
tranh luận và đấu đá nhau nữa, mà là mũi dao chọc thẳng vào những lương tâm còn
biết động lòng trắc ẩn và cảm thông. Hẳn phải nếm trải những cơ cực và thiếu thốn,
con người mới có thể cảm nhận được phần nào những khổ đau của người đồng loại.
Tôi tin chắc rằng 6 người Úc được may mắn đi ngược lại cuộc hành trình của những
người tầm trú và tất cả những ai theo dõi cuộc hành trình của họ trong tuần qua
trên màn ảnh, giờ đây hẳn thấy “cảm thông” hơn với những người kém may mắn hơn
mình.
Cuộc sống dư dật về vật chất,
an toàn về xã hội dễ khiến cho con người bị cuốn xoáy trong dòng nước của chủ
nghĩa tiêu thụ. Ông Karl Rabeder, một triệu phú người Áo đã dùng tất cả tài sản
của mình để giúp cho một số dự án phát triển tại Châu Mỹ Latinh và lui về sống ẩn
dật tại một nơi hẻo lánh, đã nhận định về thế giới kinh doanh và xã hội tiêu thụ
như sau: “Họ bảo chúng ta phải sắm sửa để
được hạnh phúc. Nhưng vì những thứ ấy không làm cho chúng ta hạnh phúc cho nên
chúng ta cứ mua sắm mãi…Chúng ta giống như những con cừu: ở bên trái, chúng ta
nghe một con chó sủa khiến chúng ta lo lắng về cuộc khủng hoảng tài chánh toàn
cầu và về việc chúng ta có thể mất công ăn việc làm; ở bên phải lại có một con
chó khác cũng sủa để cảnh cáo chúng ta về sự cần thiết phải mua bảo hiểm thật đắt
để phòng ngừa trường hợp đau yếu. Do đó, chúng ta cật lực làm việc cho tương
lai đến độ không thể sống cho ngày hôm nay…Tôi đã trải nghiệm điều đó, vì tôi
đã bỏ cả cuộc đời để trở nên giàu thêm nhưng lại cảm thấy khốn khổ hơn.” (Reader’
Digest, ấn bản Úc châu, số ra tháng 7/2011)
Thực ra, không phải tất cả mọi
người giàu có đều chỉ biết làm giàu và bất hạnh. Noi gương hai tỷ phú Bill
Gates và Warren Buffet, ngày càng có nhiều cự phú và tài tử giai nhân giàu có
trên thế giới biết đóng góp vào các công cuộc từ thiện và phát triển. Nếu có hưởng
nếm được một chút niềm vui hay hạnh phúc đích thực, thì hẳn không phải vì họ
đang ngồi ngất ngưỡng trên núi tiền của mình, mà chỉ vì họ đã biết “san bằng”
núi tiền đó cho những người bất hạnh cùng khổ.
Xuất thân từ một gia đình
nghèo, ngay từ thuở nhỏ, ông Rabeder đã biết giá trị của đồng tiền. Ở tuổi thiếu
niên, ông đã biết làm việc để dành dụm tiền bạc và tự trang trải học phí của
mình. Ra đời, nhờ tài trí và siêng năng, ông kiếm tiền một cách dễ dàng. Nhưng
rồi đến một lúc, ông tự hỏi: “Phải chăng
kiếm tiền, sản xuất ra những thứ mà không ai thực sự cần đến là mục đích của cuộc
đời?” Câu hỏi này dầy vò ông đến cực
độ trong chuyến đi nghỉ hè với vợ tại Hawaii năm 1998. Suốt hơn ba tuần lễ sống
trong một khách sạn sang trọng, ông ghi nhận một điều lý thú: “Ở đây không có những con người sống thực, mà
chỉ có những diễn viên. Các nhân viên (khách sạn) diễn vai của những người thân
thiện và hữu ích, trong khi đó những người khách trọ thì lại đóng vai của những
người muốn nói: “Nhìn đây, tôi là người quan trọng”.
Theo ông Rabeder, bộ mặt thật
của những người giàu có thường là bất hạnh, buồn bã, bất an. Trong những chuyến
đi Châu Mỹ Latinh, ông thường quan sát thấy nhiều người ở những nước kém phát
triển xem ra sống hạnh phúc hơn người dân của các nước phát triển. Ông nói: “Mỗi lần từ El Salvador bay về Frankfurt, tôi
thường nhìn những gương mặt của những người xung quanh và tự hỏi: “Phải chăng vừa
mới có một cuộc tấn công khủng bố?” Tôi chợt nhận ra rằng những bộ mặt đầy âu
lo là tiêu biểu của thế giới phát triển. Nói về hạnh phúc thì Âu châu, Nhựt bản
và Hoa kỳ là những nước kém phát triển. Ở thế giới thứ ba, tôi đã gặp nhiều người
chẳng có mấy chọn lựa trong cuộc sống nhưng lại là những người có thể sống giây
phút hiện tại. Tôi bắt đầu ý thức rằng tôi không cần có ngôi nhà tôi đang có tại
Provence, những chiếc xe đẹp, những bữa ăn đắt tiền. Bước kế tiếp là phải đi vào
quan hệ với người khác.” (sđd trang 99)
Được “giác ngộ” như thế cho
nên ông Rabeder đã quyết định xử dụng toàn bộ tài sản của mình để tài trợ cho
các dự án phát triển và giáo dục tại Châu Mỹ Latinh và lui về ở ẩn tại một vùng
núi bên Áo với thu nhập vừa đủ cho mọi chi dụng cần thiết mỗi ngày. Ông thường
trích dẫn câu ngạn ngữ của người Đức “muốn
sống hạnh phúc hãy sống đơn giản”. Trước tuổi 40, ông luôn luôn tự hỏi: “Tôi có thể làm điều gì?” Nhưng sau đó, ông
chỉ còn biết tự nhắc nhở chính mình: “Đâu
là điều quan trọng đối với tôi?”
Có thể đó chưa phải là câu tâm
niệm thường ngày của tôi. Nhưng cứ mỗi lần đi phố để mua sắm, nhứt là quần áo, tôi cứ phải tự hỏi
“Tôi có cần mua không?” Kinh nghiệm cho thấy, ham rẻ tôi mua thật nhiều về bỏ
đó, mà không bao giờ đụng tới. Điều này đúng không những đối với quần áo mà còn
cả đối với các thứ gia dụng khác. Con người đói con mắt hơn cái bụng.
“Chủ nghĩa tiêu thụ tạo ra và nuôi dưỡng lòng khao khát của con người đối
với những của nay còn mai mất. Chúng tạo ra và nuôi dưỡng cái cảm thức cho rằng
hạnh phúc hệ tại ở sự chiếm hữu được món này món nọ. Chúng ta bị điều kiện hóa
để không bao giờ thỏa mãn với mức mình đạt được, trái lại muốn có “nhiều hơn
nhiều hơn mãi” qua việc không ngừng tăng cường hiệu xuất làm việc của mình.”
(Timothy Vaverek, Houston Catholic Worker, Vol 21, No.1, January 2001, bản dịch
trong Vietcatholic). Theo tác giả, nỗi thèm khát về một cuộc sống đầy đủ hơn
làm xáo trộn đời sống cá nhân và kinh tế của con người. Vì không hài lòng với
những gì mình có và vì không bao giờ cho phép mình an phận, con người cứ tìm kiếm
và chiếm hữu nhiều hơn. Và dĩ nhiên để có nhiều hơn thì phải làm việc nhiều
hơn. Rốt cục con người trở thành nô lệ cho lòng tham không đáy, nô lệ cho tiền
bạc, nô lệ cho những áp lực của công việc vốn “ngốn” hết thời gian cần cho những
sinh hoạt tinh thần và gia đình. “Các đôi
vợ chồng và các gia đình không còn thời gian dành cho nhau vì ai cũng quá bận rộn
theo đuổi trăm ngàn công việc của mình. Họ hối hả từ sáng sớm cho đến chiều tối.
Kết quả là họ thường phải xén bớt một hay hai tiếng của giấc ngủ mỗi buổi tối.
Họ thường xuyên mệt mỏi và thỉnh thoảng, nếu có được chút thời gian rỗi rảnh,
thì họ lại sà tới trước màn ảnh Truyền Hình, VCR hay Computer.” (bài đã dẫn).
Đã không có thời giờ dành cho gia đình, người thân thì nói gì đến những người
xa lạ, những người khốn khổ ngoài đường, những người cần được giúp đỡ, những
người kém may mắn hơn mình. Và đây cũng
chính là cái vòng lẩn quẩn của xã hội tiêu thụ. Người ta đi tìm kiếm hạnh phúc ở
những thứ chỉ mang lại bất hạnh, bất an mà thôi. Trong khi đó, chính cuộc sống
đơn giản và nhứt là sự cảm thông, chia sẻ, phục vụ mới mang lại ý nghĩa cho cuộc
sống. Đây là câu trả lời cho câu hỏi mà
ông Rabeder thường nêu lên: “Đâu là điều
quan trọng đối với tôi?”
Chắc phải trúng số thì may ra
tôi mới được xếp vào giai cấp “giàu có” , tức có số thu nhập từ 150 ngàn Úc kim
trở lên, như được chính phủ Lao động qui định. Nhưng tôi xác tín rằng với một
ít đồng xu nhỏ mà tôi cắc củm dành dụm từng ngày nhờ những cắt xén chi tiêu
không cần thiết để chia sẻ cho những người túng thiếu, tôi nghiễm nhiên thấy
mình “giàu có” hơn. Tiêu xài, mua sắm, rượt theo hàng “sale” thấy cũng mệt, bỏ
vào cái phong bì “Winter Appeal” để mua áo ấm cho trẻ em nghèo có vẻ dễ hơn. Ai
xài thì cũng tốt cho nền kinh tế thôi. “Của
đồng lần thiên hạ tiêu chung.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét