Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

“Làm người có dại mới nên khôn”



Chu Thập
20.3.15
Nhìn gương mặt của cậu thiếu niên “Úc rặc” tên là Jake Bilardi vừa mới ôm bom tự sát tại Iraq để trở thành “t đạo” và lên thiên đàng của Đấng Allah của người Hồi giáo, tôi thấy thương hại hơn là oán ghét. Tôi thấy Jake chẳng có bất cứ nét bậm trợn hay hung tợn nào của những tên thánh chiến mặt mày râu ria của tổ chức “Quốc gia Hồi giáo” và ngay cả cậu có thề thốt sẽ sát hại chính người đồng bào ruột thịt Úc của mình đi nữa, tôi vẫn nhận ra những nét ngây thơ, dễ thương trên gương mặt của cậu. Với tôi,  Jake là một nạn nhân đáng thương hơn là một tên gian ác đáng nguyền rủa. Nếu người mẹ của cậu không qua đời vì bệnh ung thư năm 2012, nếu cậu được người cha yêu thương chăm sóc và nhứt là nếu cậu đã không “giác ngộ” và cải đạo sang Hồi giáo để rồi bị lừa vào con đường khủng bố, thì biết đâu người thiếu niên đã từng theo học tại một trường dành cho những học sinh có năng khiếu đặc biệt ở Melbourne lại chẳng trở thành một khoa học gia, một nhà bác học tài ba. Bồng bột, dại khờ để bị dụ dỗ và lừa vào con đường tội ác: đó là tất cả những gì mà sự thông cảm đã gợi lên trong tôi mỗi khi nhìn vào gương mặt non dại của Jake Bilardi.
Đọc lại cuộc hành trình đi vào con đường tội ác như được Jake ghi lại và chia sẻ trên các trang mạng xã hội, tôi không thể không liên tưởng đến các anh “bộ đội cụ Hồ”, mà nhiều người đã gọi một cách rất chính xác là “cán ngố”. Đa số cũng có bộ mặt non choẹt và trông cũng “ngố” chẳng thua gì cậu thiếu niên “thánh chiến” Jake Bilardi. Những khuôn mặt dại khờ đó cũng bị lừa bịp, dụ dỗ để thề nguyền “sinh Bắc tử Nam”, quyết chí “xẻ dọc Trường Sơn” để vào giải phóng Miền Nam và xây dựng một thứ thiên đàng chẳng bao giờ có. Lần đầu tiên nhìn thấy tận mắt những anh “cán ngố” ấy ngơ ngác tiến vào thành phố biển Nha Trang của tôi ngày 2 tháng 4 năm 1975, tôi thấy thương hại hơn là thù ghét. Họ cũng chỉ là nạn nhân. Họ cũng chỉ là những người ngu ngơ, khờ dại bị cho ăn bánh vẽ hay tệ hơn, nói theo kiểu nói quen thuộc của người dân quê của tôi, là những đứa trẻ khờ khạo bị ai đó gạt “cho ăn cứt gà sáp”.
Mà đâu chỉ có đám thiếu niên và thanh niên nghèo đói, thất học và khờ khạo ấy bị lừa bịp.  Dạo tháng 8 năm 1947, bị truất phế và phải lưu vong sang HongKong, gặp lại thủ tướng Trần Trọng Kim, lời đầu tiên mà cựu hoàng Bảo Đại đã thốt lên với ông là: “Chúng mình già trẻ đều mắc lừa bọn du côn”. Từ ông vua, ông thủ tướng đầu tiên, cho đến hàng hàng lớp lớp những nhà trí thức Việt Nam đều bị Hồ Chí Minh và bọn côn đồ cộng sản lừa bịp. Có kịp thức tỉnh  như triết gia Trần Đức Thảo hay luật sư Nguyễn Mạnh Tường thì cũng đã muộn. Phần đông những nhà trí thức khác từ năm 1945 đến nay, dù có biết mình đã ngu dại để bị lũ côn đồ lừa bịp, lại vẫn tiếp tục cúc cung phục vụ cái chế độ côn đồ ấy. Một vài tên đầu sỏ như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng...làm sao có đủ năm đầu sáu tay để vừa lừa bịp vừa đàn áp, nếu không có những nhà trí thức “quyết tâm ngu” để họ sai khiến và sử dụng.
“Quyết tâm ngu” không phải là cụm từ do tôi sáng chế. Đây là kiểu nói tôi học được qua một bài chia sẻ mới đây của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa ngoài Bắc. Ông Nghĩa kể lại rằng từ nhiều năm nay, vợ chồng ông sống được là nhờ “công ơn của Đảng”. Ông giải thích: “Đảng cộng sản, như chúng ta đã biết, chẳng làm được cái tích sự gì cho dân, cho nước, nhưng đảng lại tạo ra nhiều việc làm cho những ai làm nghề photocopy như tôi”. Theo ông, có khoảng 70 phần trăm tài liệu người ta mang đến thuê ông đánh máy, phô tô đều là tài liệu của đảng, nói về đảng hoặc dính líu đến đảng. Ví dụ, “các văn bản tổng kết hoạt động của chi bộ, đảng bộ v.v...6 tháng đầu năm, cuối năm, cả năm, các nghị quyết, các đợt phát động thi đua, như học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; các cuộc thi tìm hiểu lịch sử đảng, công ơn đảng, rồi các diễn văn chào mừng, kỷ niệm  ngày 30 tháng 4, ngày 3/2/ ngày 2/9, ngày 19/5. Ngoài ra, học sinh làm bài luận văn “Nói không với ma túy” cũng “Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sinh viên cao đẳng du lịch làm luận án tốt nghiệp bao giờ cũng chép lại của nhau câu mở đầu: “Dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng, ngành công nghiệp không khói nước ta đã...”
Ông Nghĩa cho biết: “Khi đã in ra một bản bằng máy in, còn phải phô tô ra hàng chục bản để chỉ thị, chủ trương chính sách của đảng cấp cao và đảng địa phương đi xuống tận quần chúng, cơ sở, để quán triệt, thực hiện đến từng câu, từng chữ...”
Ai cũng trở thành những con vẹt hết. Có người khi đến phô tô còn giở giọng ta thán về nạn tham nhũng, cửa quyền, về đường lối, chính sách sai lầm. Có người còn hăng tiết nói về tội ác của đảng cộng sản nữa. Nhưng nếu được hỏi: tại sao biết thế mà vẫn tiếp tục sinh hoạt đảng, viết sách hoặc ngay cả làm thơ ca ngợi đảng, anh nào cũng nhún vai: “Anh nói lạ thế! Tôi là đảng viên mà”.
Họ giải thích với nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa rằng chỗ riêng tư tâm sự với ông thì khác, còn “nói trước hội nghị đảng, hội nghị ủy ban mặt trận tổ quốc .v.v...tức là trước cái bọn “quyết tâm ngu” thì mình không nói khôn được”.
Nhưng kể từ ngày có người đã “tiết lộ” thái độ “quyết tâm ngu” của lũ lu la của chế độ côn đồ với ông Nghĩa thì các ông bí thư chi bộ đảng, ông bí thư đảng ủy, bà hiệu trưởng các trường học trong vùng, bên công an...đều có chỉ thị cho cấp dưới, cho học sinh, sinh viên cách đối xử với cửa hàng photocopy của “tay Nghĩa phản động”. Khách hàng ngày càng ít, gia đình ông bị bao vây kinh tế.
Có lần ông Nghĩa tâm sự với một ông cán bộ về thu nhập ngày càng sút giảm của mình. Ông này tỉnh bơ nói: “Con tôi thi đỗ vào trường an ninh rồi ông Nghĩa ơi. Vì tương lai của con tôi, tôi vẫn phải “quyết tâm ngu”. Có lẽ ông cán bộ cộng sản này cũng đại diện cho cả một tầng lớp những nhà giàu mới, phất lên nhờ biết bám vào cái thây chết của chủ nghĩa cộng sản hoặc đám người đang phè phn hưởng thụ để nhắm mắt làm ngơ trước bao nhiêu bất công và đau khổ mà chế độ côn đồ đã gây ra cho dân chúng.
Đọc bài “Quyết Tâm Ngu” của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa trên đây, tôi thấy xót xa và ngao ngán cho tương lai của Việt Nam. Chỉ còn hơn một tháng nữa là đúng 40 năm ngày những người cộng sản “cướp chính quyền” và thiết lập chế độ côn đồ. Trước đây, cứ mỗi một lần tưởng niệm 10 năm, 15 năm, 20 năm, 30 năm mất nước, tôi cứ tự an ủi rằng chế độ cộng sản sắp sụp đổ đến nơi rồi. Nhưng lần này, kỷ niệm 40 năm, tôi thấy như mình “khôn” ra để tỏ ra dè dặt hơn trong niềm hy vọng của mình. Cám ơn nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, bây giờ tôi mới ngộ ra rằng đâu phải cái thời cộng sản mới cướp chính quyền ở Miền Bắc năm 1945 mới có những nhà trí thức “quyết tâm ngu” để ăn bánh vẽ và vẽ bánh cho người dân ngu ăn. Sau đúng 70 năm ở Miền Bắc và sau đúng 40 năm ở Miền Nam, dòng giống của những kẻ “quyết tâm ngu” ngày càng sinh sản nhiều và cái chế độ cộng sản côn đồ cứ vẫn tồn tại.
Cũng may cho tôi, nhờ sớm thoát khỏi chế độ côn đồ ấy cho nên tôi chưa đến nỗi phải “quyết tâm ngu”. Ngu và khờ dại trong tiến trình học làm người như tôi thì chẳng bao giờ hết. Còn sống là còn học làm người và còn học làm người là còn ngu và khờ dại. Cứ đi được một đoạn đường, nhìn lại tôi thấy mình đã không biết bao nhiêu lần ngu. Ngu trong lời ăn tiếng nói. Ngu trong những quyết định nông nổi. Ngu trong cách đối nhân xử thế. Có lúc nhìn lại, tôi thấy xấu hổ và chỉ muốn độn thổ cho rồi.
Thật ra, ở đời, biết được mình “ngu” không phải là điều mà ai cũng muốn biết. Tôi thích câu chuyện về “ba kẻ đại khôn và đại ngu” do ai đó đã sưu tầm và kể lại. Một ông vua nọ bỗng nổi hứng sai quan tể tướng đi tìm cho bằng được ba người được xem là đại khôn trong nước. Ông tể tướng đi vài ngày ra chợ và tìm được một người đàn ông đói rách, nhưng luôn tự cho mình là kẻ sĩ. Ông đưa kẻ ăn mặc rách rưới ra trình diện trước mặt vua và khẳng định rằng đây là một người đại khôn, vì chuyện gì anh ta cũng có thể giải đáp rành mạch. Nhà vua đã thử tài và công nhận kẻ ăn mặc rách rưới là một đại khôn.
Nhà vua sai tể tướng cho trình diện người đại khôn thứ hai. Quan tể tướng liền cúi đầu thưa: Thưa, chính là thần đây ạ. Thấy nhà vua còn ngỡ ngàng chưa kịp hỏi tiếp, quan tể tướng liền giải thích: nếu thần không phải là bậc đại khôn thì làm sao có thể nhận ra kẻ ăn mặc rách rưới kia là bậc đại khôn. Nhà vua gật đầu đồng ý.
Đến khi phải cho trình diện người đại khôn thứ ba, quan tể tướng liền lễ phép tâu: Thưa, người đó chính là Bệ Hạ ạ! Lại một phen nữa, nhà vua ngạc nhiên đến độ muốn bật ra khỏi ngai vàng. Quan tể tướng liền giải thích:  Bệ hại phải là bậc đại khôn mới có thể biết thần xứng đáng mà giao trọng trách tể tướng ạ!
Một thời gian sau, nhà vua lại sai quan tể tướng đi tìm cho bằng được ba người đại ngu. Lần này cũng thế, sau vài ngày đi rảo ngoài chợ, quan tể tướng lại cũng rước người đàn ông đói rách hôm trước vào triều đình và giới thiệu như là tên đại ngu thứ nhứt. Ông giải thích rằng con người đói rách này lúc nào cũng tự xưng là kẻ sĩ nhưng lại cam phận đói rách nơi đầu đường xó chợ thì không  đại ngu là gì. Ông còn nói thêm: hắn ta đúng là kẻ “ngu tâm”. Khi được hỏi ai là tên đại ngu thứ hai, quan tể tướng liền cúi đầu chịu tội: thưa hạ thần chính là tên đại ngu thứ hai, bởi vì hạ thần chịu trách nhiệm về dân sinh mà không chuyên chú lo cho dân cho nên trong đất nước mới có những kẻ đói rách như thế này. Hạ thần là một kẻ ngu tài.
Đến lúc phải cho trình diện tên đại ngu thứ ba, quan tể tướng lại chỉ vào nhà vua mà nói: Bệ hạ chính là người ấy. Bệ hạ là kẻ ngu trí. Ngu tâm như kẻ đói rách đây còn có thể chữa, ngu tài như hạ thần đây cũng có thể thay thế được, nhưng ngu trí như bệ hạ thì chỉ báo hại xã tắc mất thôi.
Không rõ kết thúc câu chuyện, ông vua vừa nhận biết mình là một tên đại ngu xử trí như thế nào. Đã biết mình ngu nhưng lại “quyết tâm ngu” thì quả là hết thuốc chữa. Trái lại, ông vua sẽ là bậc đại khôn nếu ông nhìn nhận mình là một tên đại ngu.
Người xưa quả đã nói một cách chí lý: “d học d ngu”. Càng học, càng có nhiều kiến thức và hiểu biết thì mới đạt được tuyệt đỉnh của sự khôn ngoan là: biết mình ngu!
Có lẽ cụ Trần Tế Xương (1870-1907) đã ngộ được cái lẽ khôn ấy cho nên trong bài thơ có tựa đề “dại khôn”, cụ mới dạy : “Làm người có dại mới nên khôn”. Tôi hiểu ý cụ muốn nói: nhận ra cái ngu của mình để học hỏi kinh nghiệm và cố gắng vươn lên trong lẽ khôn ngoan, chớ không phải để “quyết tâm ở lại trong cái ngu”.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét