Chu Thập
30/11/18
Báo “Người Việt”, một trong những tờ báo Việt ngữ có nhiều
độc giả và uy tín nhứt ở Mỹ sẽ kỷ niệm đúng 40 năm thành lập vào ngày 15 tháng
Mười Hai tới đây. Tôi chú ý đến biến cố này bởi vì đây là một trong những tờ
báo tiếng Việt tôi đọc nhiều nhứt. Đọc không chỉ để theo dõi thế sự mà còn để
trau dồi tiếng Việt, để nuôi dưỡng tình tự quê hương và lòng yêu nước. Cụ Phạm
Quỳnh đã chẳng nói: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”
đó sao? Tôi hiểu chữ “còn” ấy theo một ý nghĩa thiêng liêng cao quý nhứt. “Còn”
là còn trước tiên trong máu thịt, trong trái tim của tôi.
Hình như người nước nào cũng tự hào về sự “cao quý” của đất
nước mình. Không thiếu những tác giả Việt
Nam đã viết về “người Việt cao quý”. Một trong những nét “cao quý” ấy có lẽ được
thể hiện qua “Tiếng Việt mến yêu” như báo Người Việt lúc nào cũng có một trang
riêng để đề cao. Trong lỗ tai của tôi, tiếng Việt lúc nào cũng dễ “mến yêu” và
cũng “dễ thương”. Ở những nơi ít có người Việt, không gì bồi hồi xúc động cho bằng
tình cờ nghe được tiếng Việt. Nhưng cảm động nhứt vẫn là nghe một câu tiếng Việt
ngọng nghệu từ môi miệng của một người ngoại quốc.
Cách đây mấy hôm gia đình tôi có tổ chức một cuộc dã ngoại
ngắn ở The Entrance, một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của vùng
Central Coast, cách Sydney khoảng 100 cây số về hướng Bắc. Trong lúc đi bách bộ
trong thành phố, tôi tình cờ nghe được một câu tiếng Việt rất chỉnh “người Việt
Nam hả?” phát ra từ phía sau. Quay lại, tôi vừa ngỡ ngàng vừa sung sướng khi nhận
ra người hỏi câu ấy là một ông Tây rặc. Hỏi ra mới biết ông Tây này không phải
là dân Miệt Dưới, mà là một ông Tây Ban Nha. Ông cho biết: vợ ông là một người
Việt Nam. Hai người đã gặp nhau khi học đại học chung với nhau. Họ đã lấy nhau
được 13 năm và hiện đang làm chủ 2 tiệm Nail, một ở The Entrance và một ở miền
Tây Sydney. Qua cuộc trao đổi ngắn, tôi tin chắc đây là một người đàn ông có cuộc
sống gia đình rất hạnh phúc. Nhưng riêng qua một vài câu tiếng Việt của ông, tự
nhiên tôi thấy ông là một người “dễ thương”.
Tôi cũng nghĩ như thế về đứa con gái 12 tuổi con của người
cháu gái của tôi bên Mỹ. Cháu gái tôi kể lại rằng không biết có phải do tình tự
dân tộc chợt đến bất ngờ không mà một hôm, chờ mẹ vừa đi làm về, cô bé đã chạy
đến ôm chầm lấy mẹ rồi nói: “Mẹ, tôi yêu bạn”. Cháu gái tôi bảo là đã không nhịn
cười được trước câu “tỏ tình” bằng tiếng Việt do ông Google mách bảo này.
Tiếng Việt mến yêu và dễ thương thật, nhưng cũng rắc rối
vô cùng. Người Tây phương vốn lịch sự, ít khi cười cợt khi nghe người ngoại quốc
phát âm sai hoặc nói không đúng cú pháp. Còn “An nam ta” như cụ Nuyễn Văn Vĩnh
đã ghi nhận, “có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người
ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng,
mọi việc hết nghiêm trang”. Kể từ khi cố gắng hội nhập vào văn hóa Tây phương,
tôi bớt “hì”, bớt “cười” một cách vô
duyên trước những câu tiếng Việt ngọng nghệu của người ngoại quốc. Trái lại, cứ
hễ nghe người ngoại quốc nói tiếng Việt là tôi thấy có sự đồng cảm giữa tôi và
người đó. Sự đồng cảm thường ít được diễn tả bằng lời nói cho bằng cử chỉ và
hành động. Có thể đây là một trong những nét “cao quý” của người Việt Nam chăng ? Để
bày tỏ tình yêu, dường như người Việt Nam nói bằng hành động hơn là lời nói.
Giáo sư Nguyễn Thanh Việt, tác giả của quyển tiểu thuyết
“The Sympathizer” (cảm tình viên) được trao giải thưởng Pulitzer hồi năm 2016,
đã cố gắng giải thích về tình yêu ấy trong một bài viết được đăng trên tạp chí
Time số ra ngày 26 tháng Mười Một và 2 tháng Mười Hai này.
Với tựa đề “American Like Me. What it means to love my
country, no matter it feels about me” (Là người Mỹ như tôi. Tôi muốn nói lên
tình yêu của tôi đối với đất nước, dù cho đất nước ấy có nghĩ như thế nào về
tôi đi nữa), bài viết của Giáo sư Việt xoáy vào một chủ đề gây nhiều tranh cãi
hiện nay là lòng ái quốc. Phân tách cụm từ quen thuộc của những người Mỹ chống
di dân “Love it or leave” (hãy yêu nước Mỹ hay là hãy rời khỏi nước Mỹ), Giáo
sư Việt chia sẻ rằng suốt thời niên thiếu ông chưa bao giờ nói “yêu thương” ai
(I love you) bởi vì cha mẹ ông chưa bao giờ nói hai chữ “yêu thương” với ông.
Nhưng điều đó không hề có nghĩa là cha mẹ ông không thương ông. Hai ông bà đã
thương con đến độ làm việc cật lực khi đến Mỹ. Hai ông bà làm việc nhiều đến nỗi
không còn giờ dành cho con. Còn nếu có gặp nhau thì hai ông bà mệt mỏi đến độ
không còn tỏ ra vui nổi nữa. Nhưng dù có tất bật đến đâu vì công ăn việc làm,
lúc nào ông bà cũng lo cho cái đầy đủ cái ăn, cái mặc. Theo ông, tình yêu mà
cha mẹ ông dành cho ông được diễn tả bằng hy sinh hơn là bằng 2 tiếng “tình
yêu” ngoài môi mép.
Tác giả của quyển tiểu thuyết “The Sympathizer” chia sẻ:
“Một tiếng nói hay một giọng nói cũng đủ để tôi cảm nhận được tình yêu sâu xa ấy,
như tôi đã tình cờ nghe được tại một tiệm thuốc tây trong khu phố tôi ở tại Thành
phố Los Angeles. Người đàn ông đứng bên cạnh tôi là một người Á Đông, không đẹp
trai, lại ăn mặc xuềnh xoàng. Trên điện thoại di động, ông nói giọng miền Nam:
“Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?” Trông ông mộc mạc, có lẽ là dân cu li. Nhưng
khi ông nói chuyện với con bằng tiếng Việt, giọng của ông nghe rất trìu mến. Điều
ông nói, không thể dịch ra (tiếng Anh), mà chỉ có thể “cảm được” mà thôi”.
Theo nhận xét của Giáo sư Việt, lời người đàn ông trên
đây nói với con cũng là cách người Việt Nam đón chào khách đến nhà mình. Họ thường
hỏi khách “ăn cơm chưa?” Giáo sư Việt giải
thích cho người Mỹ: “Đây là cách mà cha mẹ (Việt Nam), tuy là những người không
bao giờ nói “cha mẹ yêu con” (I love you) với con cái, nói với con cái họ rằng
họ yêu thương chúng”. Được nuôi dạy và lớn lên theo những lề thói, cảm xúc và mối
giây thân tình ấy cho nên giáo sư Việt nói rằng ông gần như muốn khóc khi nghe
người đàn ông trên đây nói chuyện với con.
Từ việc bày tỏ tình thương của người Việt Nam, giáo sư Việt
nói đến “tình yêu” của ông đối với đất nước Mỹ, quê hương thứ hai của ông. Với
nhiều người Mỹ, yêu tổ quốc là yêu lá cờ, là yêu bài quốc ca. Rất nhiều người,
từ địa vị cao nhứt trong chính quyền cho đến người “dân đen”, xem những biểu tượng
ấy như cốt lõi của lòng ái quốc để buộc mọi người Mỹ phải “yêu” nước Mỹ hay là
hãy “rời bỏ” nước Mỹ.
Giáo sư Việt cho rằng sự kiện ông không mặn mà với lá cờ
hay bài quốc ca không làm cho ông “bớt” là Mỹ hơn những người “yêu” những biểu
tượng ấy. Với ông, điều quan trọng không phải là những biểu tượng ấy mà là những
nguyên tắc và giá trị đằng sau những biểu tượng ấy. Những nguyên tắc và giá trị ấy “là dân chủ, bình đẳng, công lý,
hy vọng, hòa bình và nhứt là tự do”.
Tình yêu đối với nước Mỹ như được Giáo sư Việt bày tỏ
trên đây đương nhiên làm tôi nhớ lại bài diễn văn mà Tổng thống Pháp Emmanuel
Macron đã đọc trước mặt rất nhiều nguyên thủ quốc gia, trong đó có Tổng thống Mỹ
Donald Trump và Tổng thống Nga Vladimir Putin vào ngày Mười Một tháng Mười Một 2018
vừa qua, nhân dịp tưởng niệm đúng 100 năm ngày chấm dứt Đệ nhứt Thế Chiến.Trong
bài diễn văn, Tổng thống Pháp khẳng định rằng “dân tộc chủ nghĩa là một sự phản
bội đối với lòng yêu nước”. Những người theo dân tộc chủ nghĩa chỉ biết đến quyền
lợi của đất nước mình bất kể điều gì có thể xảy ra cho người khác. Yêu nước như
thế, theo Tổng thống Pháp, là “xóa bỏ điều quý giá nhứt mà một quốc gia có thể có. Đó là điều làm cho quốc gia sống
còn, làm cho nó vĩ đại. Đó là điều quan trọng nhứt. Điều đó chính là những giá
trị đạo đức”.
Tôi tin rằng một đất nước chỉ thực sự vĩ đại khi nó được
xây dựng trên những giá trị đạo đức và nhân bản. Tôi buồn cho nước Mỹ khi
nguyên thủ quốc gia của đất nước vĩ đại này đã đặt quyền lợi của nước Mỹ, mà cụ
thể là “dầu lửa”, “công ăn việc làm” và “tiền bán vũ khí” lên trên những giá trị
đạo đức và nhân bản khi không những nhắm mắt làm ngơ mà còn biện minh cho hành
động tội ác của một nhà độc tài.
Buồn cho nước Mỹ tôi lại càng lo thêm cho thế giới. Mở đầu
lời tuyên bố về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Vương quốc Á rập Saudi và vụ sát hại
ký giả Jamal Khashoggi mà Cơ quan Tình báo Mỹ xác nhận đã được thực hiện dưới sự
chỉ đạo của Thái tử kế vị của Á rập Saudi, Mohammad bin Salman, Tổng thống
Donald Trump viết: “Thế giới đang là một nơi rất nguy hiểm” (The world is a
very dangerous place). Và ông chỉ tay về Công hòa Hồi giáo Iran, là quốc gia mà
ông cho là đang gây ra mọi xáo trộn tại Trung Đông và là “nước bảo trợ hàng đầu
cho khủng bố trên thế giới” (the world’s leading sponsor of terror). Dĩ nhiên,
có chế độ độc tài nào mà không làm cho thế giới trở thành một nơi nguy hiểm.
Nhưng nhìn sâu vào bản chất của bất cứ một chế độ độc tài nào, ai mà chẳng thấy
rằng “vô đạo” là nền móng của chế độ ấy. “Thế giới đang là một nơi rất nguy hiểm” là bởi vì vẫn
tồn tại nhiều chế độ độc tài, vẫn có những nhà lãnh đạo lăm le đi theo con đường
chuyên chế và nhứt là có những nước “vĩ đại”, chỉ vì quyền lợi của mình, không
những nhắm mắt làm ngơ, mà còn biện minh cho những hành động độc ác của các chế
độ độc tài. Bao lâu những giá trị đạo đức và nhân bản bị đặt dưới những quyền lợi
vật chất và những bản năng thấp hèn nhứt của con người thì đó là lúc thế giới
trở thành “một nơi rất nguy hiểm”. Lịch sử của 2 cuộc thế chiến đã chứng minh
điều đó.
Mới đây cơ quan truyền thông Mỹ “Public Broadcasting
Service” (PBS) đã tổ chức một cuộc thăm dò để biết tác phẩm văn chương bằng Anh
ngữ nào được người Mỹ ưa chuộng nhứt. Kết quả của cuộc thăm dò với 7.200 độc giả
cho thấy đứng đầu danh sách 10 tác phẩm được người Mỹ ưa thích nhứt là quyển tiểu
thuyết có tựa đề “To Kill a Mockingbird” (Giết Một Con Chim Nhại Tiếng) của Nữ
sĩ Nelle Harper Lee (1926-2016). Nhân vật chính của quyền tiểu thuyết xuất bản
hồi năm 1960 này là ông Atticus Finch. Là một luật sư, ông Finch đã đánh đổi sự
nghiệp và danh tiếng của mình để biện hộ cho một người da đen bị tòa kết án một
cách oan ức về một tội mà anh không hề phạm. Luật sư Finch đã trở thành một
hình ảnh tiêu biểu về đạo đức, bởi vì ông đã sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ
công lý và lẽ phải. Một nhân vật khác, tuy phụ, nhưng cũng trở thành biểu tượng
của đạo đức là ông “Boo” Radley, người láng giềng của gia đình ông Finch, một
người luôn làm những điều tốt đẹp cho người khác.
Quyển tiểu thuyết này hiện đang được người Mỹ ưa chuộng nhứt là phải, bởi vì
hơn bao giờ hết, họ ý thức được rằng những giá trị đạo đức mới thực sự là điều
làm cho quốc gia của họ “vĩ đại”.
Tôi chưa một lần hãnh diện về sự “vĩ đại” của đất nước
tôi. Trong tiếng Việt, từ “vĩ đại” cũng
không thường được nhắc nhở. Nhưng ít ra với tôi lúc nào tiếng Việt cũng là “Tiếng
Việt mến yêu” bởi vì với những câu đầu đời học trò như “Tiên học lễ hậu học
văn” và “thương người như thể thương thân”, Tiếng Việt dạy tôi điều quan trọng
nhứt trong cuộc đời là học sống cho ra người “có đạo” và tử tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét