Chu Thập
07/09/18
Khi một nhân vật lịch sử nằm xuống, người ta thường thu
thập những giai thoại về họ. Về cố thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, người ta thường
nhắc đến câu chuyện có liên quan đến quyển tiểu thuyết nổi tiếng của văn hào
Ernest Hemingway có tựa đề “For Whom the
Bell Tolls” (Chuông gọi hồn ai đó), được xuất bản hồi năm 1940. Chuyện kể về
một thanh niên Mỹ tên là Robert Jordan đã tình nguyện gia nhập vào Đội quân Quốc
tế theo phe Cộng Hòa để chống lại phe Quốc gia do nhóm Phát xít yểm trợ trong
cuộc chiến Tây Ban Nha (1936-1939).
Năm lên 12 tuổi, tình cờ nhặt được hai chiếc lá thật đẹp
từ một cành cây trước nhà, cậu thiếu niên McCain đã chạy vội vào phòng đọc sách
của cha mình để tìm một cuốn sách hầu ép
những chiếc lá này. Cậu muốn giữ những chiếc lá như một kỷ vật mang lại may mắn.
Cuốn sách mà cậu tìm thấy trước tiên chính là quyển tiểu thuyết “Chuông gọi hồn
ai đó” của văn hào Hemingway. Trang sách cậu tình cờ mở ra lại nằm ngay trong
chương 10 của quyển sách. Đây là trang mô tả về sự tàn ác của chiến tranh. Cậu
đã bị lôi cuốn tức khắc và đã đọc hết cuốn sách. Nhân vật Robert Jordan đã gợi
lên trong cậu một niềm cảm hứng sâu xa: cậu mơ ước mình cũng có được “lòng can đảm và tinh thần cao thượng”
như nhân vật chính của cuốn sách.
Trong cuốn hồi ký có tựa đề “Worth the Fighting For” (Một cuộc chiến xứng đáng để chiến đấu cho),
được xuất bản năm 2002, Thượng nghị sĩ McCain đã viết như sau: “Từ rất lâu, Robert Jordan là một nhân vật mà
tôi ngưỡng mộ hơn hầu hết mọi người khác trong đời sống thật cũng như trong tiểu
thuyết. Anh ta là một người gan dạ, luôn quyết tâm và có khả năng, lại biết hy
sinh quên mình, anh có đầy đủ những tính chất làm nền tảng cho lòng can đảm mà
tác giả Hemingway đã mô tả như là một nét dễ thương khi đứng trước áp lực, một
người đàn ông sẵn sàng hy sinh tính mạng chứ không bao giờ chịu bán rẻ danh dự
của mình” (x. http://thoibao.com/chuong-goi-hon-john-mccain/).
Thời trung học, tôi chưa có đủ khả năng để đọc nguyên bản “Chuông
gọi hồn ai đó” bằng Anh ngữ. Nhưng bản dịch bẳng tiếng Pháp “Pour qui sonne le
glas”, thì tôi lại rất quen thuộc. Quả thật, câu chuyện gợi lên nhiều cảm hứng
cho giới trẻ. Nhưng với riêng tôi, cứ mỗi lần nghe nhắc đến tựa đề của quyển tiểu
thuyết, tôi lại nhớ đến tiếng chuông chùa và chuông giáo đường trong làng tôi.
Làng tôi, một làng quê thuộc tỉnh Khánh Hòa, miền Trung
Việt Nam, là một trong những ngôi làng có truyền thống “tôn giáo đề huề” nhứt. Một nửa họ hàng của tôi theo Công giáo, một nửa
theo Phật giáo hay Đạo ông bà. Bên ngoài nhà thờ hay nhà chùa, ai cũng đều là
ông bà, cô bác, cô dì, anh chị em với nhau. Biểu tượng của 2 tín ngưỡng nổi bật
trong làng tôi là tiếng chuông chùa và chuông giáo đường. Sáng tối trưa chiều,
hầu như ngày nào tôi cũng “phải” nghe tiếng chuông. Bên kia con sông Con chia
cách làng làm hai là tiếng chuông chùa. Bên này bờ sông là tiếng chuông nhà thờ.
Tiếng chuông chùa nghe âm u, buồn thảm, nhứt là những
ngày mưa gió, nhưng cũng luôn có sức gợi lên ray rứt và sám hối. Trong một truyện
viết về một vùng nông thôn, nhà văn Nguyễn Khải trong nước đã nói đến sức mạnh
cải hóa của tiếng chuông chùa. Vào giữa lúc chế độ cộng sản có thái độ nghi kỵ
cũng như nỗ lực tiêu diệt tôn giáo, nhà văn Nguyễn Khải kể lại câu chuyện của một
ông huyện ủy được bổ nhiệm về một vùng quê. Một trong những công tác đầu tiên của
ông là cho sửa lại một ngôi chùa đổ nát, sau đó mời một nhà sư về tụng kinh gõ
mõ. Ông huyện ủy tin rằng sớm một hồi chuông, tối một hồi chuông, tên cướp nào,
dù sừng sỏ đến đâu, nghe mãi rồi có lúc cũng phải hồi tâm.
Tiếng chuông từ giáo đường của tôi có đủ âm điệu vui buồn.
Nhưng hình như buồn nhiều hơn vui. Tuần bảy ngày có đến sáu buổi sáng tôi phải
nghe “tiếng chuông gọi hồn” từ tháp chuông nhà thờ của tôi. Thời đó, sáng nào trong nhà thờ cũng có “lễ mồ”, tức lễ cầu
hồn. Người ta dựng lên một ngôi mồ giả giữa nhà thờ. Mồ giả được phủ bằng một lớp
vải đen được vẽ lên với mọi cảnh của tang chế như những giọt nước mắt, những
chiếc đầu lâu, những chiếc xương...Trên bàn thờ cũng như các cây cột trong nhà
thờ, người ta treo toàn những tấm liễn màu đen...5 giờ sáng, tiếng cầu kinh của
vị linh mục và cung điệu buồn thảm bằng tiếng La Tinh của ca đoàn được kèm theo
những tiếng chuông cứ mỗi phút gõ đều một cái. Lễ cầu cho người quá cố cũng là
một lời mời gọi hồi tâm và sám hối!
Nhưng buồn thảm nhứt vẫn là tiếng chuông bất thần vang
lên từng tiếng đứt quãng giữa ban ngày. 9 tiếng báo hiệu có một phụ nữ trong
xóm đạo vừa thở hơi cuối cùng. Còn 7 tiếng thì nghe khủng khiếp hơn: một người
đàn ông, nhứt là một người lính chết trận bất thần được đưa về gia đình mà
không có một lời báo trước.
Tôi không biết tựa đề “Chuông gọi hồn ai đó” của quyển tiểu
thuyết của nhà văn Hemingway có gợi lên trong Thượng nghị sĩ McCain cùng những
cảm xúc và suy nghĩ như tôi không. Chỉ biết rằng suốt cuộc đời binh nghiệp và
chính trị của ông, lúc nào ông cũng nhập vai một trách trọn vẹn vào nhân vật
Robert Jordan của quyền tiểu thuyết. Trong đám tang của ông, nhiều người đã nói
đến những đức tính và lý tưởng cao đẹp mà ông là hiện thân. Dù không muốn nhìn
nhận ông là một anh hùng quốc gia đi nữa thì ít ra cũng không thể hẹp hòi đến độ
không dành cho ông sự kính trọng vì lòng can đảm, tính cương trực, tấm lòng vị
tha và sự công minh của ông. Có người
tôn ông lên bậc quân tử. Cũng có người so sánh ông với cố Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc Kofy Anan và gọi ông là người chính trực.
Quả thực ông có nhiều đức tính để tôi nhìn vào như một tấm
gương. Tuy nhiên, với tôi ông cũng chỉ là một con người như mọi người khác,
nghĩa là cũng từng có những yếu đuối, lầm lẫn, sai lạc. Trong những ngày cuối đời,
ông đã cố gắng viết một di chúc để lại cho nhân dân Mỹ. Ở ngưỡng cửa của sự chết,
nhìn lại cuộc đời, con người thường tỏ ra sáng suốt hơn lúc nào hết cho nên họ
thường nói lên những điều khôn ngoan. Trong di chúc của Thượng nghị sĩ McCain
tôi chú ý đến câu ông viết trong phần mở đầu: “Tôi đã cố gắng phục vụ đất nước trong danh dự. Tôi đã có những sai lầm,
nhưng tôi hy vọng rằng tình yêu của tôi đối với nước Mỹ sẽ được tính để bù sớt
cho những sai lầm đó”. Trong dòng kế tiếp, ông nhắc lại: “Cũng như hầu hết mọi người, tôi cũng đã có
những hối tiếc”.
Đọc những lời tự thú trên đây và nghe văng vẳng bên tai
“Chuông gọi hồn ai đó”, tôi cho rằng
chân dung của Thượng nghị sĩ McCain đã tỏa sáng hơn khi ông nhìn nhận
mình đã có những yếu đuối, sai lầm. Suốt cuộc đời, ông đã sống can đảm.
Cuối đời, ông lại càng tỏ ra can đảm hơn khi thú nhận mình đã có lúc sai lầm.
Theo ngôn ngữ tôn giáo, ông đã tỏ lòng sám hối. Sám hối, hiểu một cách thấu
đáo, chính là dám đào sâu trong lương tâm của mình và nhìn nhận sự thật. Nhìn
nhận sự thật, sống chết cho sự thật...đó mới thực sự là can đảm.
Thời buổi này, có lúc tôi cảm thấy hoang mang vì không biết
rồi đây “sự thật” sẽ đi về đâu. Nhứt là mới đây, trong một cuộc phỏng vấn trên
đài NBC ở Mỹ, luật sư riêng của Tổng thống Donald Trump là ông Rudolph Giuliani
, khi tìm cách biện minh cho thân chủ của mình, đã tuyên bố: “Sự thật không phải là sự thật” (Truth
isn’t truth). Hồi năm ngoái, sau khi
tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Trump khẳng định rằng số người tham dự lễ đăng
quang của ông đông hơn nhiều so với số người tham dự lễ tuyên thệ nhậm chức của
người tiền nhiệm ông là Tổng thống Barack Obama. So sánh 2 bức ảnh chụp được về
2 buổi lễ, ai cũng thấy số người tham dự lễ tuyên thệ của Tổng thống Obama đông
hơn nhiều so với số người tham dự lễ đăng quang của Tổng thống Trump. Nhưng vị
nữ cố vấn thân cận của Tổng thống Trump là bà Kellyanne Conway lại khẳng định rằng
Tổng thống Trump hoàn toàn đúng, bởi vì có những sự kiện mà bà gọi là “sự kiện
khác” (alternative facts).
Thú thật, tôi chẳng hiểu “sự kiện khác” là gì. Kể từ đó, tôi
luôn cảm thấy hoang mang khi người ta nói về “sự thật”. Có sự thật không? Sự thật
là gì? Trả lời cho một câu hỏi như thế đâu có đơn giản. Thời mới bước chân vào
ngưỡng cửa triết học, hai môn nhập môn tôi phải học là luận lý học và tri thức
luận và câu hỏi đầu tiên tôi phải bù đầu bứt tóc để trả lời là: sự thật là gì? Định nghĩa kinh điển nhứt về sự thật mà tôi học
được là: sự tương hợp của trí tuệ và sự vật (adaequatio intellectus et rei).
Tôi chẳng bao giờ thỏa mãn về định nghĩa này. Sự vật hay thực tại mà trí khôn của
tôi tiếp cận với qua các giác quan hay qua chứng từ của người khác thường được
nắm bắt bằng nhận thức của tôi. Mà nhận thức của tôi có khi lại rất giới hạn.
Thời xa xưa, trái đất bằng phẳng và mặt trời quay xung
quanh trái đất đã chẳng là một “sự thật” hiển nhiên đó sao? Nếu các nhà khoa học
không chứng minh ngược lại thì có lẽ nhân loại vẫn cứ tiếp tục bám vào “sự thật”
ấy. Có những điều tôi cho là sự thật nhưng người khác lại bảo là sai lầm. Triết
gia kiêm khoa học gia Pháp Blaise Pascal (1623-1662) đã chẳng nói: “Sự thật bên
này dãy núi Pyréneés lại là sai lầm bên kia dãy núi đó” (Vérité en decà des
Pyrénées, erreur au delà). Sự thật lúc này có thể không phải là sự thật lúc khác và sự thật của
người này có khi không phải là sự thật đối với người khác. Thí dụ, về hiện tượng
trái đất bị hâm nóng, trong khi các khoa học gia cho rằng đó là một hiện tượng thật
đã và đang xảy ra thì có người lại quả quyết là không đúng vì mùa Đông ông ta vẫn
cảm thấy lạnh và tuyết vẫn rơi. Tin vào cảm nhận và giác quan giới hạn của mình
để phủ nhận những dữ kiện dựa trên những bằng chứng khoa học là một điều nguy
hiểm vì dù thông minh cách mấy, ai cũng có giới hạn.
Định nghĩa thế nào là sự thật không phải là điều dễ dàng.
Thuyết phục người khác về sự thật lại càng khó hơn. Chỉ có điều: tôi biết một
cách chắc chắn là có sự thật! Sự thật cũng giống như không khí tôi hít thở từng
phút từng giây. Tôi chỉ biết có không khí và thế nào là không khí khi tôi bị ngộp
thở. Cũng thế, tôi thường biết có sự thật khi tôi nói dối. Và có con người nào
có mặt trên mặt đất này mà đã không ít hay nhiều nói dối?
Kinh nghiệm đầu đời của tôi không phải là cảm nghiệm được
sự thật cho bằng biết nói dối. Và trong hơn 70 năm sống kiếp con người, tôi ý
thức rằng có sự thật và thế nào là sự thật mỗi khi tôi nói dối. Khi tôi phạm
pháp như trốn xâu lậu thuế hay cướp của giết người và bị đưa ra trước tòa, luật
sư giỏi có thể cãi cho tôi trắng án, nghĩa là vô tội. Nhưng sự thật như thế nào
thì chỉ có tòa án lương tâm của tôi mới biết mà thôi!
Ngày nay, tôi không còn nghe được tiếng chuông chùa hay
chuông giáo đường nữa. Nhưng từ trong đáy thẳm tâm hồn của tôi, lúc nào cũng có
tiếng “chuông gọi hồn ai đó” luôn nhắc nhở tôi về sự thật. Sự thật không phải
là điều để định nghĩa, lý luận, tranh cãi mà là để thực thi, để sống, nhứt là để
phán xét chính tôi. Không cần phải đợi xuống mồ, khi tôi không còn hay không muốn
nghe tiếng “chuông gọi hồn ai đó” nữa, thì đó là lúc tôi đã chết rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét