Chu Thập
7.8.15
Khoa học ngày càng làm được những bước dài trong khám phá và tìm hiểu vũ trụ.
Ngày 14 tháng 7 vừa qua, sau một cuộc
hành trình kéo dài 9 năm, vượt qua đoạn đường gần 5 tỷ cây số, phi thuyền New
Horizons của cơ quan không gian NASA, Hoa Kỳ,
đã đến gần Pluto, hành tinh xa nhứt trong thái dương hệ, để có thể gởi về
trái đất của chúng ta một số hình ảnh về hành tinh này. Cách đây hơn một phần
tư thế kỷ, có lẽ không ai dám nghĩ tới khám phá này.
Rồi cũng trong những ngày vừa qua, cơ quan NASA lại tuyên bố đã tìm thấy một
hành tinh mới mà sự cấu tạo , điều kiện địa chất và khí hậu giống với trái đất của chúng ta đến nỗi họ đã đặt cho nó cái tên là “Earth 2.0” (Trái đất 2), một “chị em song sinh” của trái đất chúng
ta. Quay xung quanh một mặt trời khác, “Earth 2.0” cách trái đất chúng ta đến gần
1500 năm ánh sáng, nhưng lại không quá nóng và cũng không quá lạnh. Yếu tố này
khiến cho các khoa học gia tin rằng rất có thể có sự sống trên “chị em song sinh”
của trái đất này.
Ngoài trất đất của chúng ta, liệu trong vũ trụ bao la này có thể có một
“loài người” khác, tức những con người cũng có trí khôn như chúng ta không?
Trung tâm Điện ảnh Hollywood đã từng đưa
ra giả thuyết ấy qua nhiều cuốn phim về người ngoài hành tinh. Nay đến lượt
khoa học lại cũng muốn “làm việc” với một giả thuyết như thế.
Với sự khuyến khích của nhà vật lý học người Anh nổi tiếng của thế kỷ là
ông Stephen Hawking, một tỷ phú người Nga là ông Yuri Milner đã sẵn sàng bỏ ra
100 triệu Mỹ kim để tìm cho ra được trong vũ trụ rộng đến 92 tỷ năm ánh sáng
không những sự sống nói chung mà còn cả sự sống của một hay vô số những “loài người” khác giống như chúng ta. Với dự
án trị giá 100 triệu này ở khởi đầu, các khoa học gia sẽ “thám thính” và dò xét
đến cả triệu ngôi sao và 100 giải ngân hà gần nhất, mỗi cái có thể chứa đựng đến
hàng trăm tỷ ngôi sao mà họ cho là biết đâu lại chẳng cưu mang một sự sống nào
đó. Người ngoài hành tinh “E.T” (extraterrestrial)
có thể cũng bay nhảy như loài người chúng ta. Còn nếu họ cũng nói chuyện ồn ào
như chúng ta, thì họ không thể lẩn trốn đi
đâu được. Nói cách khác, từ nơi họ ở hẳn phải có những tín hiệu được phát ra.
Những cố gắng của khoa học là làm sao tiếp nhận được những tín hiệu ấy. Còn
không thì về phía loài người chúng ta, cứ bắn tín hiệu đi khắp nơi và càng xa
càng tốt. Biết đâu ở một nơi nào đó, người ngoài hành tinh lại chẳng nhận được
tín hiệu của loài người chúng ta và sẽ tìm cách đáp trả.
Giả thuyết về sự hiện hữu của một hay nhiều “loài người” khác ngoài trái đất
không chỉ thu hút sự chú ý của các khoa học gia hay những người tiền rừng bạc bể, mà cũng trở thành một mối quan tâm đặc biệt của các tôn
giáo, cách riêng của Giáo hội Công giáo mà Vatican là cơ quan đại diện. Cách
đây 4 thế kỷ, dựa trên tường thuật “thi vị” của Kinh Thánh về vị trí trung tâm
của trái đất trong vũ trụ, Giáo hội Công giáo đã xem Galileo Galilei (1564- 1642) như một người “lạc đạo”, khi ông tuyên bố
ngược lại với Kinh Thánh rằng trái đất quay xung quanh mặt trời chớ không phải
ngược lại. Từ đó, nhiều người thường nhìn vào Giáo hội Công giáo như một thứ lực
cản hủ lậu, ngăn chận bước tiến của khoa học. Công
bình mà nói, vụ án Galilei quả là một sai lầm đáng tiếc của Giáo hội Công giáo.
Giáo hội này đã không biết bao lần lên tiếng nhìn nhận sai lầm và đấm ngực sám
hối. Nay không những khuyến khích nghiên cứu khoa học, Giáo hội Công giáo cũng
dấn thân vào công cuộc nghiên cứu ở nhiều địa hạt khác nhau. Với mục đích đó,
Tòa Thánh Vatican đã cho thiết lập một Hàn Lâm Viện Khoa Học để đích thân tham
gia vào công cuộc nghiên cứu khoa học. Điển hình nhứt là sự kiện ngay từ thế kỷ
18, Tòa Thánh Vatican đã có cả một Đài Thiên Văn. Liên quan đến giả thuyết về sự
hiện hữu của một loài người khác ngoài hành tinh, mới đây Tòa Thánh Vatican đã cho
tổ chức một hội nghị qui tụ trên 30 nhà khoa học gồm các nhà thiên văn học, vật
lý học và sinh học, trong đó có những người ngoài công giáo.
Về giả thuyết của sự sống ngoài hành tinh, giám đốc Đài Thiên Văn của Tòa
Thánh Vatican, Linh mục Jose Gabriel Funes, một nhà thiên văn học, đã tỏ
ra rất tích cực. Với nhà thiên văn học này, một giả thuyết như thế xem ra chẳng
có gì trái ngược với niềm tin tôn giáo và dĩ nhiên cũng chẳng phủ nhận được sự
hiện hữu của một Đấng Tạo Hóa mà các tín đồ của các tôn giáo độc thần như Do
Thái giáo, Hồi giáo và Ki Tô giáo hằng tin tưởng và tuyên xưng.
Tôi là một trong vô số những tín đồ như thế. Với tôi, điều đáng suy nghĩ
không phải là sự hiện hữu của một hay nhiều loài người bên ngoài trái đất của
chúng ta, mà chính là cái khả năng hiểu biết và khám phá hầu như vô tận của
loài người trên trái đất này. Ngày 12 tháng Tư năm 1961 là một ngày đáng ghi nhớ
trong lịch sử nhân loại khi phi hành gia Nga Yuri Gargarin trở thành người đầu
tiên được phóng lên không gian trong phi thuyền Vostok 1. Không đầy một tháng sau đó, chuyện đi vào không gian
đã trở thành bình thường khi phi hành gia Mỹ đầu tiên là ông Alan Shepard cũng
thực hiện được một chuyến đi như thế. Nhưng năm 1968, cả thế giới đã phải sửng
sốt và thán phục khi Hoa Kỳ cho phi hành gia của họ đổ bộ xuống mặt trăng và cắm cờ của họ ở đó. Ngày nay, chuyện đi vào không gian
không còn là độc quyền của Nga hoặc Mỹ nữa. Thế giới đang tính đến chuyện đưa
người lên “lập nghiệp” trên Hỏa Tinh hoặc ngay cả sẽ du lịch đến những nơi có
người ngoài hành tinh đang sinh sống.
Thám hiểm không gian, tìm hiểu vũ trụ...khả năng hiểu biết và khám phá của
con người xem ra không có giới hạn. Kể từ khi Isaac Newton (1642- 1726) công bố định luật về sức hút của vũ trụ, kế
đó James Clerk Maxwell (1831-1879) đưa ra Phương trình Điện từ trường,
rồi Albert Einstein (1879-1955) khai
sinh Thuyết Tương đối...dường
như những bí ẩn của vũ trụ đều có thể giải thích được bằng những công thức toán
học chắc nịch như định lý mà Pythagoras (570-495 BC) đã suy diễn từ những định
đề của Euclides
(300 BC).
Sinh thời, có lần nhà bác học Einstein tâm sự rằng điều khiến cho ông quan
tâm nhiều nhứt là liệu “Thiên Chúa” có một chọn lựa nào không khi tạo dựng vũ
trụ này. Nói cách khác, liệu con người có thể đi vào “đầu óc” của “Thiên Chúa”
để hiểu được “tư tưởng” của Ngài khi Ngài tạo dựng vũ trụ này không? Dĩ nhiên,
nhà bác học này không hề sử dụng từ “Thiên Chúa” theo ý nghĩa tôn giáo quen thuộc
của các tôn giáo độc thần. Với ông, từ “Thiên Chúa” chỉ là một ẩn dụ để nói đến
những câu hỏi sâu sa về sự hiện hữu của vũ trụ mà thôi. Nỗi thao thức của cha đẻ
thuyết tương đối đã được nhiều nhà khoa học ngày nay chia sẻ. Họ tin rằng con
người có thể đi vào “đầu óc” của “Thiên Chúa”, nghĩa là có thể tìm ra được câu
trả lời cho mọi bí ẩn của vũ trụ. Cụm từ “Lý thuyết của mọi sự” (Theory of
Everything) thường được dùng để nói đến cái khả năng của con người có thể giải
thích được mọi sự. Mọi sự đều có thể cân đo đong đếm một cách chính xác theo
các phương trình toán học.
Tôi tin ở sự tiến bộ không ngừng của khoa học. Tôi tin ở khả năng tuyệt vời
của trí khôn con người. Tôi tin rằng rồi đây bức màn của không biết bao nhiêu
bí ẩn của vũ trụ sẽ được vén mở. Nhưng với tôi, dù cho khả năng hiểu biết của
con người có vô tận đi nữa, “mầu nhiệm”, nghĩa là sự hiện hữu của những điều
không thể giải thích được, vẫn mãi mãi bao trùm lấy chỗ đứng và sự hiện hữu của
con người trong vũ trụ này.
Một linh mục công giáo người Đức ở thế kỷ 17 tên là Johann Angelus Silesius
có để lại những bài thơ và thánh ca nổi tiếng. Có một bài thánh ca trong đó vị
linh mục này viết: “Con người có hai con mắt. Một con mắt chỉ thấy những gì
chuyển động trong thời gian. Một con mắt lại nhận ra điều vĩnh cửu và thần
linh”. Linh mục Silesius có lẽ muốn nhắc nhở rằng con người không chỉ bước đi bằng
con mắt khoa học để chỉ nhìn thấy những gì có thể cân đo đong đếm được, mà còn
cần phải tỉnh thức để nhận ra những thực tại vĩnh cửu và thần linh trong cuộc sống.
Thời trung học, tôi rất say mê những “tư tưởng” (Penseés) của nhà toán học,
vật lý học, nhà phát minh và đồng thời cũng là một triết gia người Pháp là
Blaise Pascal
(1623-1662). Tôi vẫn nhớ mãi những suy tư của ông về điều
thường được gọi là “nỗi khắc khoải của Pascal” (L’angoisse pascalienne). Ông viết:
“Khi thấy sự mù quáng và nỗi khốn khổ của con người, khi nhìn vào vũ trụ câm lặng
và con người không có ánh sáng, bơ vơ một mình và như thể lạc lõng trong gốc vũ trụ này, mà không biết ai đã đặt mình vào
đó, mình đến đó để làm gì, mình sẽ như thế nào
khi chết, không có khả năng hiểu biết...tôi cảm thấy run sợ như một người đang
ngủ bỗng bị mang đến một đảo hoang đáng sợ và khi thức giấc không biết mình
đang ở đâu và không có phương tiện để ra khỏi đó. Tôi thán phục và không hiểu tại
sao người ta không hề thất vọng khi lâm vào môt hoàn cảnh khốn khổ như thế. Tôi
thấy xung quanh tôi có những người cũng có một bản tính như tôi: tôi hỏi họ liệu
họ có hiểu biết hơn tôi không. Họ trả lời không. Những con người lạc lõng đáng thương này, khi nhìn xung quanh mình và nhận thấy
có vài đồ vật có thể “mua vui” được, đã lăn xả vào đó và gắn bó với chúng” (Blaise Pascal, Les Penseés, Section XI, Les prophéties)
Bơ vơ, lạc lõng giữa vũ trụ như mọi người, nhưng Pascal đã chạy đến với
niềm tin tôn giáo. Với ông, chỉ có niềm tin tôn giáo mới có thể xoa dịu được nỗi
khắc khoải khôn nguôi của con người.
Cũng như triết gia Pascal và vô số những tín đồ tôn giáo, những lúc hụt hẫng,
chao đảo trong cuộc sống, tôi chỉ biết dựa vào niềm tin tôn giáo.Tôi nghĩ rằng
đó là thân phận chung của con người trên trái đất này. Ngay cả những người đấm
ngực tự xưng là “vô thần” cũng không tránh khỏi những giây phút hụt hẫng, chao
đảo như thế và muốn hay không họ cũng bám víu vào một “niềm tin” hay “tín ngưỡng”
nào đó, dù là niềm tin hay tín ngưỡng “vô thần”.
Trong tôn giáo của tôi cũng như nhiều tôn giáo khác, nhiều người bên ngoài
nhìn vào có lẽ chỉ thấy những điều “vớ vẩn” hoặc ngay
cả “phi lý”. Làm sao hiểu hay cảm được sự kiện hàng năm có đến 30 triệu tín đồ Ấn
Giáo đổ xô đến dòng sông Hằng để tắm gội và thanh tẩy trong dòng nước dơ bẩn
thiếu vệ sinh nếu không phải là một tín đồ Ấn Giáo? Làm sao hiểu hay cảm được
lòng thành tín của hàng triệu triệu người hàng năm tìm đến dòng nước suối Lộ Đức
mà chỉ có những người có lòng thành tín mới “nhìn thấy” và cảm nhận được hiệu
năng chữa trị?
Dù có “vớ vẩn” hoặc “phi lý” cách mấy dưới cái nhìn luận lý hay khoa
học, với tôi, niềm tin tôn giáo vẫn mãi mãi cần thiết cho cuộc sống, bởi vì chỉ
có niềm tin tôn giáo mới có thể giúp tôi xoa dịu được nỗi khắc khoải khôn nguôi
trong tôi và đưa tôi đi vào “mầu nhiệm” của cuộc sống mà khoa học, dù có tiến bộ
đến đâu, cũng không thể giải thích được. Mãi mãi tôn giáo vẫn là chiếc phao cứu
hộ cho con người đang bơ vơ lạc lõng giữa đại
dương của cuộc đời. Dù là Niết Bàn hay Tây Phương cực lạc trong đó con người sẽ
hoàn toàn được giải thoát khỏi kiếp sống khổ đau, dù là Thiên Đàng trong đó con người sẽ được “hưởng
mặt Chúa sáng láng vui vẻ vô cùng”, niềm tin tôn giáo nào cũng đều là động lực
thúc đẩy con người ăn ngay ở lành. Con người cần có niềm tin tôn giáo để được sống
an bình và góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét