Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

Hãy Cho Hòa Bình Một Cơ Hội

     

                                                                        
Cũng như nhiều người hâm mộ thể thao, tôi say mê đội bóng Brasil. Tôi say mê đến độ thuộc tên tuổi và nhớ từng chi tiết trên gương mặt cũng như cá tính của từng danh thủ như Pele, Romario, Bebeto, Cafu, Ronaldo, Ronaldinho, Kaka…Những trận thi đấu của đội Brasil dẫu có được trực tiếp truyền hình vào giữa đêm khuya, tôi cũng không bao giờ bỏ sót.

Mới đây, để kéo dài danh sách các thần tượng bóng đá Brasil của mình, tôi đã bỏ giờ để theo dõi hai trận bán kết và chung kết của đội tuyển thanh niên Brasil trong giải túc cầu thế giới “Under 20” diễn ra tại Ai cập. Những tuyển thủ dưới 20 tuổi này cũng có lối đá không khác gì các bậc cha chú của họ.Tuy nhiên, xem qua hai trận đấu, tôi chẳng giữ lại được một hình ảnh đẹp nào của đội tuyển “Under 20” này của Brasil, ngoại trừ một cử chỉ của một cầu thủ da trắng, tóc vàng mà tôi không nhớ tên. Sau trận bán kết với đội Costa Rica, người ta thấy người cầu thủ trẻ này quỳ gối xuống, giang rộng hai cánh tay, mắt nhắm nghiền lại và miệng lâm râm cầu nguyện. Tôi đoán: có lẽ anh đọc “Kinh lạy Cha” là lời kinh mà người tín hữu Kitô nào cũng thuộc nằm lòng. Rồi cũng chính anh lại được ống kính truyền hình chiếu cố một lần nữa, khi anh lập lại cử chỉ này trước khi đội Brasil vào đá phạt đền để phân thắng bại trong trận chung kết với đội Ghana. Tôi tin chắc rằng hôm đó, không riêng người thanh niên mộ đạo này, mà có lẽ toàn quốc gia Brasil, nơi được xem là có đông người Công giáo nhứt thế giới, cũng thành tâm cầu nguyện cho đội tuyển của mình đoạt giải vô địch.

Nhưng kết quả hôm đó đã khiến cho những người say mê đội bóng đá Brasil phải thất vọng. Người Brasil đã cầu nguyện, nhưng xem ra Thiên Chúa lại nhậm lời những người Hồi giáo Ghana. Cán cân quyết định của những quả phạt đền nghiêng về phía đội tuyển thanh niên Ghana.

Tôi say mê đội Brasil, nhưng với tôi, thắng thua trong thể thao là chuyện thường tình; chẳng có gì phải khiến “rầu rĩ" như nhà có đám ma.Với tôi, nghệ thuật có tính trung lập. Trong khi  không ngừng hâm mộ đội Brasil, nhưng tôi vẫn cảm phục tài nghệ và nhìn nhận thành quả của đội Ghana.

Thật ra, trong tôi, đội thanh niên Brasil vẫn là đội vô địch.Với hình ảnh của người cầu thủ trẻ quỳ gối cầu nguyện được ống kính truyền hình chiếu cố và được cả thế giới “chiêm ngắm” trong hai trận bán và chung kết trong giải Túc Cầu Thế Giới “Under 20” vừa qua, đội Brasil đã thực sự chiến thắng trong tôi. Còn lại trong tôi không phải là những đường banh hay những cú làm bàn đẹp, mà là hình ảnh của hai cánh tay giang rộng, đôi mắt nhắm lại và đôi môi mấp máy cầu nguyện.

Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh của cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu khi ông đến thăm tỉnh Quảng Trị vừa được quân đội Việt nam Cộng hòa chiếm lại được trong mùa hè đỏ lửa năm 1972: trước đống gạch vụn của ngôi nhà thờ cổ kính Lavang đổ nát, ông đã quỳ gối xuống và làm “dấu Thánh giá”, vốn là cử chỉ cầu nguyện quen thuộc của bất kỳ một tín hữu Công giáo nào.

Cảm kích nhứt đối với tôi vẫn là hình ảnh của những  bàn thờ dã chiến trên những chiếc tàu vượt biên của người Việt nam: một bên là bàn thờ Phật với những tiếng tụng kinh của người Phật tử, một bên là ảnh tượng Chúa  Mẹ  với tiếng cầu kinh của người tín hữu Kitô.

Trên bất cứ hải đảo xa xôi nào, khi vừa đặt chân lên bến bờ tự do, việc làm đầu tiên của người tỵ nạn Việt nam phải chăng không là dựng lên một ngôi chùa hay một nhà thờ để “Tạ ơn”: dù có xiêu quẹo đến đâu, những nơi thờ phượng ấy vẫn đẹp nhờ những bảng tạ ơn được viết lên với tất cả  tấm lòng thành.

Nằm khuất trong những trang báo của người Việt hải ngoại, những  lời tạ ơn Đức Phật và ông thánh “Jude” nằm sát bên nhau vẫn có sức sáng chói: đó là một chút ánh sáng được thắp lên để nhắc nhở con người về chiều kích siêu việt của cuộc sống; có những điều mà con người chỉ đạt được nhờ lời cầu nguyện!

Chính với niềm xác tín ấy mà năm 1987, đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã mời gọi tất cả mọi nhà lãnh đạo tôn giáo trên khắp thế giới đến thành phố Assisi, Ý, để cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Assisi được nhà lãnh đạo Công giáo chọn làm nơi để các tôn giáo gặp nhau và cầu nguyện cho Hòa bình Thế giới bởi vì đây là quê hương của thánh Phanxicô Assisi, người đã từng tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện cho hòa bình đến nỗi đã có thể cảm hóa được cả những hung thú.

Dù có "khô đạo" hay dửng dưng đến đâu, dù có hung hãn và tàn bạo đến đâu, nhìn cảnh những con người không đồng đạo sát cánh bên nhau cùng thành tâm cầu nguyện cho hòa bình, ai mà chẳng cảm thấy “xốn xang” trong lòng!

Nhà văn Nguyễn Khải, người mãi cho đến cuối đời mới tìm lại được “cái tôi đã mất” trong chế độ cộng sản vô thần, đã phải nhìn nhận: sáng một hồi chuông, tối một hồi chuông, nghe mãi như thế thì dù một tên cướp sừng sỏ đến đâu cũng phải có lúc hồi tâm.

Quả thật, cầu nguyện là một sức mạnh huyền bí nhứt trong cuộc sống con người. Khi một sinh viên chuẩn bị luận án tiến sĩ tại đại học Princeton, Hoa kỳ hỏi ông: “Trên thế giới này có còn một đề tài nghiên cứu nào được xem là “độc đáo” không?”, nhà bác học Albert Einstein, cha đẻ của thuyết tương đối, người được xem là nhà bác học vĩ đại nhứt của thế kỷ 20 vừa qua, đã trả lời : “Hãy nghiên cứu về sự cầu nguyện. Cần phải có ai đó tìm hiểu về sự cầu nguyện”.

Bức màn của vũ trụ ngày càng được vén mở lên. Nhưng chắc chắn, bí ẩn của sự cầu nguyện vẫn mãi mãi còn đó. Đã là người thì con người không thể không cầu nguyện bằng cách này hay cách khác. William James, một trong những triết gia nổi tiếng của nước Mỹ, đã từng thú nhận: “Lý do khiến chúng ta cầu nguyện là bởi vì chúng ta không thể không cầu nguyện”.

Người có tôn giáo cầu nguyện đã đành, mà ngay cả những người vỗ ngực tự xưng là “vô thần” cũng vẫn cứ “cầu nguyện”. Khi Chủ nghĩa Vô thần được thiết lập như quốc giáo tại cái nôi của Chủ nghĩa Cộng sản là Nga, thì tại những nơi mà trước kia các tín hữu Chính thống giáo trưng bày các ảnh tượng của họ, những "tín đồ" Cộng sản cũng dành ra một góc “đỏ” để thờ phượng hai ông “thánh” Lenin và Stalin của mình. Trong một số báo phát hành năm 1950, người ta đọc được trên báo “Pravda” (Sự thật) những lời khuyên như sau: “Khi bạn gặp khó khăn trong công việc hay bất thần nghi ngờ về khả năng của bạn, hãy tưởng nghĩ đến Người, (tức Stalin) và bạn sẽ tìm được sự tin tưởng mà bạn cần có. Nếu bạn cảm thấy mệt mỏi trong một tiếng đồng hồ, điều mà lẽ ra bạn không được phép có, hãy tưởng nghĩ đến Người và công việc sẽ xuôi chảy. Nếu bạn muốn làm một quyết định đúng đắn, hãy tưởng nghĩ đến Người và bạn sẽ tìm ra quyết định ấy”.

Sinh thời, nhà đồ tể Stalin đã từng là một “chủng sinh”, tức người có ý hướng trở thành một linh mục trong Giáo hội Chính thống Nga, vốn không tin ở sức mạnh của sự cầu nguyện. Khi tổng thống Hoa kỳ Eisenhower đề nghị nên tiếp xúc với tòa thánh Vatican để mời làm trung gian trong một số tranh chấp trên thế giới, Stalin đã ngạo nghễ vặn lại: “Đi hỏi xem ông giáo hoàng có bao nhiêu sư đoàn?” Cũng như Mao Trạch Đông, Stalin chỉ tin ở sức mạnh của lò thuốc súng.

Nếu sống cho đến tháng Hai năm 1986, hai nhà đồ tể này hẳn phải nhận ra rằng có một sức mạnh còn kỳ diệu hơn lò thuốc súng nhiều: không một tấc sắt trong tay, gần hai triệu người dân Phi luật tân đã có thể chận đứng xe tăng thiết giáp, vô hiệu hóa cả một quân đội trang bị tận răng. Họ chỉ có mỗi một thứ khí giới là tràng chuỗi trong tay và lời cầu nguyện.

Nếu còn sống cho đến tháng 11 năm 1989, thì hẳn hai ông “thánh” của tôn giáo vô thần này lại phải chứng kiến một điều còn vĩ đại hơn nữa: Gần một triệu người dân Đông Đức đã tuần hành trong ôn hòa xuyên qua Đông Berlin. Khoảng nửa đêm ngày 9 tháng 11, xảy ra một điều mà có lẽ không ai dám cầu nguyện cho xảy ra: bức tường ô nhục Berlin do chế độ Cộng sản dựng lên đã bị rạn nứt và từ từ đổ xuống trước  làn sóng người dân ùa tới. Những người lính cộng sản, vốn luôn tuân lệnh để bắn bỏ bất cứ ai tiến gần đến bức tường đó, đã đứng nhìn bất động. Không một ai đã bị giết chết và nguyên một chế độ tưởng sẽ muôn đời đứng vững ấy đã sụp đổ. Người dân Đông Đức không có một khí giới nào ngoài ánh nến trên tay và lời cầu nguyện. Cùng với bức tường ấy, tất cả những bức màn sắt tại Đông âu cũng đồng loạt bị hạ xuống, trả lại tự do và phẩm giá cho con người.

Nhà thờ Karuah, 2014
Phóng viên Bud Bultman của Đài Truyền Hình CNN đã viết như sau: “Giới truyền thông chúng tôi sửng sốt theo dõi những bức tường của chủ nghĩa toàn trị sụp đổ. Nhưng trong lúc đua nhau tường thuật các biến cố long trời lở đất ấy, chúng tôi quên mất câu chuyện đằng sau các biến cố ấy. Chúng tôi hướng ống kính đến hàng trăm ngàn người đang cầu nguyện cho tự do, trong tay cầm nến cháy sáng, nhưng lại không màng đến chiều kích siêu việt, tính chất thiêng liêng và tôn giáo của biến cố. Chúng tôi nhìn thẳng vào biến cố và không nhận ra điều ấy”.

Điều mà phóng viên Bud Bultman muốn nói đến chính là sức mạnh huyền bí của sự cầu nguyện.

Sức mạnh ấy có khi được thể hiện bằng một chiến thắng tỏ tường như trong trường hợp cuộc cách mạng thường được mệnh danh là “sức mạnh của quần chúng” tại Phi luật tân hay như trong biến cố đạp đổ bức tường Berlin. Sức mạnh ấy có khi lại chỉ ẩn hiện đằng sau những gì mà người ta cho là thất bại, thua thiệt, mất mát. Tôi nghĩ đến thái độ vô chấp, vô úy, từ bi của các tu sĩ và tăng ni sinh bị hành hung và trục xuất ra khỏi Thiền Viện Bát Nhã…Đó là thái độ chiến thắng của những người bị coi như thất bại. Tôi cũng nghĩ đến kết thúc của những cuộc biểu dương cầu nguyện của người giáo dân Công giáo tại Tòa Khâm Sứ cũ ở Hà hội, Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý…Những miếng đất đã từng là cơ sở của Giáo hội Công giáo ấy đã biến thành công viên, công lý đã không được thực hiện, sức mạnh của báng súng và dùi cui xem ra vẫn thắng thế. Nhưng những thắng thế ấy xem ra chỉ là phần nổi của những tảng băng chìm. Vì từ những mảnh đất ấy vẫn còn vang vọng không ngừng lời kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa”.

Lời cầu nguyện đích thực chỉ có thể là lời cầu nguyện cho hòa bình, cho yêu thương, cho tha thứ. Lời cầu nguyện ấy không bao giờ là một chiến bại hay thua thiệt, mất mát.Và tất cả những ai xây dựng hòa bình, cách này hay cách khác, cũng đều là những người thực sự cầu nguyện, cầu nguyện trong tư tưởng, cầu nguyện trong quyết tâm, cầu nguyện trong đoàn kết, cầu nguyện trong hành động.

Tôi nghĩ đến sáng kiến hòa bình của huyền thoại âm nhạc John Lennon, ban The Beatles và  vợ ông là Yoko Ono: trong suốt một tuần lễ từ ngày 25 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6 năm 1969, họ đã đến cư ngụ trong một khách sạn tại Montreal, Canada và mở rộng cửa cho các ký giả đến chứng kiến sinh hoạt “24 trên 24” của họ để gởi cho thế giới thông điệp: “Hãy cho hòa bình một cơ hội”.

Tôi không là một nhân vật nổi tiếng như cặp vợ chồng này. Nhưng vợ chồng tôi cũng tự nhủ: mình không làm được những việc đại sự để mang lại hòa bình cho thế giới, thì ít ra, mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, hãy cố giữ thói quen ngồi lại với nhau để cùng cầu nguyện, tha thứ và giao hòa với nhau và như vậy cũng có thể cho “hòa bình một cơ hội”.
 Chu Thập 2.11.2009


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét