Nơi tôi ở có loại gà Tây mà người Úc gọi là brush
turkey hay bush turkey. Đúng như tên gọi của nó, giống gà này trông chẳng khác
nào gà Tây. Chỉ có điều, chúng không được thuần hóa cho nên cứ phải sống trên
rừng.
Giống gà này có những đặc điểm đáng làm đề tài cho một
luận án về sinh vật học. Là thú vật, nhưng xem ra chúng không có bản năng sống
bầy đàn. Ít khi tôi thấy có hai hoặc ba con đi kiếm ăn chung với nhau. Điều
đáng ngạc nhiên nữa là tôi chẳng bao giờ thấy có chú gà trống nào ve vãn bên
cạnh nàng gà mái. Không rõ giống gà này thực hiện sứ mệnh lưu truyền nòi giống
lúc nào và ở đâu mà tôi chẳng bao giờ thấy cái cảnh gà mẹ dắt gà con đi ăn.
Cứ mỗi lần nhìn thấy bóng dáng của một con gà này thì
tôi lại liên tưởng đến chính sách tập thể hóa trong các nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tôi có cảm tưởng như mỗi buổi sáng, trong một góc rừng nào đó, sau tiếng gáy
(thật ra tôi chưa hề nghe tiếng gáy của chúng nhưng chắc chắn là có) của con gà đầu đàn, tất cả mọi con gà
tây rừng đều tập trung lại, nghe lệnh phân công, rồi mỗi con ra đi một
ngả: mấy chị gà mái đi một mình, mà ngay cả chú gà trống cũng chẳng buồn ngó
ngàng đến giống cái. Cũng lủng lẳng đeo ở cổ một “vòng vàng” như một thứ trang
sức mà loài vật giống đực thường có để hấp dẫn giống cái, nhưng những chú gà
trống vẫn chủ trương: đường ai nấy đi, mạnh ai nấy sống (hình như chúng theo
chính sách "ba khoan" của Việt Cộng thời kháng chiến: khoan yêu,
khoan cưới, khoan đẻ). Và dĩ nhiên, không có cảnh "đẩy xe bế bi". Có
lẽ mấy chú gà con đã được giao cho một nhà trẻ "tập thể" nào đó khuất
lấp trong rừng trông coi để cha mẹ đi "công tác".
Cách đây không lâu, báo Sydney Morning Herald có đăng
một bài viết về giống gà tây rừng này.Tác giả bài báo cho biết: trước cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929, giống gà này có mặt khắp nước Úc. Nhưng
dân số gà tây rừng đã giảm hẳn đi vì phải đóng góp vào việc cải thiện chế độ
dinh dưỡng của người dân nghèo trong đại khủng hoảng này.Tôi chưa có dịp thưởng
thực món thịt rừng này, nhưng nghe nói đây không phải là một món ăn đáng khuyến
khích. Hơn nữa, giống gà này lại đang được xếp vào loại quý hiếm của nước
Úc.
Hiện nay, trải dài từ tiểu bang Queensland xuống đến tận
Parramatta, thuộc New South Wales, ở đâu người ta cũng thấy có bóng dáng của giống gà
rừng này.Tuy không được thuần hóa, nhưng chúng vẫn thản nhiên và “vô tư”
xuất hiện bên cạnh con người. Và đây chính là vấn đề. Tác giả bài báo nói trên
trích dẫn kết quả một cuộc thăm dò bỏ túi, theo đó có 50 phần trăm những người
được hỏi tỏ ra “thích” sự hiện diện của giống gà này và một nửa còn lại thì chỉ
mong cho chúng nó biến khỏi mặt đất này đi cho rồi. Chỉ có điều, hiện nay chúng
nó đang là giống vật quý hiếm, cần được bảo vệ.
Theo kinh nghiệm bản thân, tôi có thể suy ra rằng, số
người thích chúng đa phần chỉ là những người "khách qua đường".
Nhìn ngắm chúng chứ không phải "đội trời chung" với chúng. Tôi thuộc
phân nửa sau, những người dù muốn hay không cũng phải ngày ngày "gặp
gỡ" và "chào hỏi" chúng.
Thù ghét con người là chuyện bình thường, ít có người
tránh khỏi.Tôi cũng đã từng có những kẻ thù mình ghét cay ghét đắng. Nhưng
tuyệt nhiên, thù ghét thú vật là điều xem ra vô lý. Cùng lắm, có ghét thì mình
chỉ ghét người chủ của nó. Chẳng hạn, bên cạnh nhà tôi có một con chó nhỏ mà
ông chủ chẳng chịu dạy dỗ gì cả. Nó chạy hết nhà này sang nhà khác và cứ “vô
tư” nhào tới bất cứ người nào để sủa. Tôi không ghét con vật này, mà chỉ thấy
“bực mình” ông chủ của nó. Nhiều lúc tôi nghĩ bụng: người sao vật vậy! Ông chủ
của con chó nhỏ này chắc cũng "thiếu giáo dục" như nó! Thật tình, tôi
chỉ không “thích” con chó nhỏ này, nhưng lại thấy “ghét” ông chủ của nó.
Riêng đối với giống gà tây rừng thì phải nói là tôi
“thù ghét” theo đúng nghĩa của chữ “thù ghét”. Nhìn cái bản mặt nó là tôi tưởng
tượng ra khuôn mặt của một giống người vô liêm sỉ, gian ác. Thấy bóng dáng nó
là tôi muốn điên tiết lên.
Giống gà này có đôi chân dài và cứng; chúng nó có thể
đào bới, moi móc bất cứ nơi nào, nhứt là rau cỏ và ngay cả những cây đã trồng
được hai năm trở lại. Bất cứ thứ gì trong vườn cũng có thể là đối tượng để
giống gà này phá hoại.
Thiên nhiên là ngôi vườn của hy vọng. Gieo một hạt
giống, trồng xuống một cây non, là nuôi dưỡng một niềm hy vọng. Vậy mà, mỗi
ngày thức giấc, bao nhiêu niềm hy vọng của tôi đều tan thành mây khói. Bao
nhiêu lần gieo vãi, trồng trọt là bấy nhiêu lần thêm thất vọng, cay đắng. Quả
thật, theo đúng nghĩa, tôi mất ăn mất ngủ vì những con gà trông giống loại
người vô liêm sỉ này. Nhiều khi đang ăn cơm thấy bóng dáng của chúng là tôi vội
vàng buông bát đũa đi rượt gà. Ngay cả đang thiu thiu làm một giấc trưa, chỉ
cần một tiếng động lạ là tôi lại nhỏm dậy, tỉnh hẳn, chạy ra vườn. Chúng là
giống lì lợm: đuổi đằng trước, lại chạy ra phía sau. Rượt chiều hôm
qua, sớm hôm sau chúng trở lại và cứ trơ cái bản mặt ra đó. Nhiều lúc tôi
rủa cho chúng bị xe cán như tôi đã từng thấy những tai nạn thảm thương xảy ra
cho Kangaroos, cho Possums, cho Wombats. Nhưng cái giống vật lì lợm này rất
thông minh: chưa bao giờ tôi thấy một con gà tây rừng nào bỏ xác trên đường. Và
cũng chưa có một con chó hay con mèo nào trong xóm tôi rượt kịp chúng: khi bí
lối, chúng liền trổ tài "khinh công" bay lên ngọn cây!
Điên tiết với kẻ thù này cho nên đêm ngày tôi tìm cách
tiêu diệt chúng. Giết chúng bằng thuốc độc thì có thể bị phạt đến 20 ngàn Úc
kim và đi tù (đụng tới luật pháp là tôi "dội"). Tôi liền nghĩ ra một
diệu kế mà tôi tin là chúng nó sẽ không thoát khỏi: tôi gắn mồi vào một
lưỡi câu và treo gần con đường mòn chúng thường xử dụng để xâm nhập gia cư của
tôi.Tôi cẩn thận gài cái bẫy này vào lúc ban đêm để qua mắt chúng.
Vợ chồng tôi có một cuộc sống tương đối hạnh phúc vì
chúng tôi chia sẻ với nhau nhiều sở thích và thú vui. Nhưng điều đó không có
nghĩa là chúng tôi lúc nào cũng có một cái nhìn giống nhau về cuộc sống hay
những cách giải quyết vấn đề giống nhau.Tôi thiên về bạo lực và những biện pháp
mạnh.Vợ tôi được trời phú cho tính kiên nhẫn cho nên thường giải quyết vấn đề
một cách ôn hòa.
Thấy tôi cứ phải ôm đầu bứt tóc và mất ăn mất ngủ vì
mấy con gà tây mắc dịch, vợ tôi âm thầm nghiên cứu một kế hoạch đối phó mà tôi
không biết.
Một buổi chiều đi làm về, tôi thấy hàng rào xung quanh
nhà được đan bằng một tấm lưới, khu vườn trồng rau xanh cũng được khoanh
lại bằng một tấm lưới ny lông, tất cả những gốc của cây ăn trái còn nhỏ đều
được tấn thêm một lớp đá chung quanh đè lên trên lớp vỏ cây.
Vợ tôi cho biết đã phải tốn một ít tiền để mua vật
liệu làm hàng rào và mất nguyên một ngày để thiết lập hệ thống phòng thủ này.
Tôi không ngờ kết quả lại mỹ mãn: ngày hôm sau, những chị gà “thông minh” vẫn
có thể tung cánh bay qua hàng rào để xâm nhập gia cư của chúng tôi. Nhưng lần
này, chúng chỉ đứng ngó vào vườn rau. Tất cả những gốc cây nhỏ đều còn nguyên
vẹn. Như vậy, móng vuốt của kẻ thù không đội trời chung của tôi đã được rút ra.
Dần dà, bọn gà tây rừng không còn thay phiên kéo nhau đến nhà tôi nhiều như
trước kia nữa. Nếu có xâm nhập gia cư bất hợp pháp, chúng cũng chẳng làm được
gì.Và tôi cũng chẳng phải sợ mất ăn mất ngủ đến chết vì căm thù cái giống
gà mất dạy này nữa.
Tôi thầm phục kế sách của nhà tôi. Đôi khi, thà thua
thiệt, mất mát một chút mà lại được việc.
Ông mục sư và vợ tôi nhắc lại cho tôi một cái mẹo
trong cách xử thế ở đời: có khi chịu thiệt thòi một chút mà lại được việc.Tôi
thấy mình đã thua thiệt và đầu hàng trước mấy con gà tây rừng dù không muốn vẫn
phải đội trời chung. Nhưng ít ra tôi cũng cảm thấy được an lòng để không còn
phải mất ăn mất ngủ nữa.
Chu Thập 26.20.2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét