Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2014

Một xã hội không còn biết khóc






Tối Chúa Nhựt 27/4/2014 vừa qua, Đài Truyền Hình ABC đã cho trực tiếp truyền hình buổi lễ phong thánh cho hai vị giáo hoàng của Giáo hội Công giáo. Vị thứ nhứt là Đức Gioan XXIII (1881-1963), nổi bật với tinh thần cởi mở, sự khiêm tốn và lòng nhân ái. Vị thứ hai là Đức Gioan Phaolô II (1920-2005) được Giáo hội công giáo đề cao vì rất nhiều “nhân đức” mà các tín hữu ngày nay có thể noi theo. Riêng tôi, một người tỵ nạn cộng sản và thế giới nói chung, đặc biệt chú ý đến sự góp phần lớn lao của vị giáo hoàng người Balan này trong việc đánh đổ các chế độ cộng sản tại quê hương của ngài và cả Đông Âu.

Với tôi, “thánh” trước tiên phải là một người triệt để chống lại cái Ác mà hiện thân là các chế độ độc tài, dù là cộng sản, quân phiệt hay dưới bất cứ hình thức nào. Không biết đây có phải là lý do khiến Giáo hội công giáo do dự trong tiến trình phong thánh cho vị tiền nhiệm của Đức Gioan XXIII là Đức Piô XII (1875- 1958) không. Mặc dù  rất nhiều tài liệu từ văn khố của Tòa thánh Vatican được bạch hóa đã cho thấy vị giáo hoàng này đã kín đáo cứu vớt rất nhiều người Do Thái tại Roma trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, nhưng với rất nhiều người Do Thái hiện nay, ngài vẫn là một người “đồng lõa” của Hitler và Đức Quốc Xã trong chủ trương diệt chủng. Tại bảo tàng viện Yas Vashem ở thủ đô Tel Aviv, Israel, trong đó có hầu hết tên tuổi của gần 6 triệu người Do Thái bị Đức Quốc Xã sát hại trong các trại tập trung và lò sát sinh, người ta lại thấy tên của vị giáo hoàng này trong hàng ngũ những tên đồ tể Đức Quốc Xã. Lý do duy nhứt là bởi vì ngài đã không chính thức lên tiếng tố cáo tội ác của Hitler và Đức Quốc Xã. Tòa Thánh Vatican vẫn biện minh rằng sở dĩ Đức Piô XII đã không viết bất cứ một thông điệp nào để lên án Đức Quốc Xã là bởi vì dựa trên nguyên tắc “giữa hai cái xấu không thể tránh được, nên chọn điều ít xấu hơn”, ngài sợ Hitler sẽ trả đũa, tòa thánh Vatican có thể bị dội bom và tình trạng của Giáo hội tại Âu Châu sẽ tồi tệ hơn. Nhưng cho tới nay, hầu hết những người Do Thái trên thế giới vẫn không chấp nhận lời biện hộ này. Với họ, vị giáo hoàng này, vì những lý do “thầm kín”, đã để cho Đức Quốc Xã tiêu diệt một dân tộc mà đã có lúc trong Phong Trào bài Do Thái, nhiều tín hữu Kitô tại Âu Châu xem như “những kẻ giết Chúa” đáng nguyền rủa!

Tôi tin rằng rồi đây lịch sử sẽ làm sáng tỏ hồ sơ của Đức Piô 12. Nhưng sự kiện Tòa thánh Vatican, cho tới nay, vẫn chưa “phong thánh” cho vị giáo hoàng này gợi lên trong tôi một suy nghĩ:  sự “thánh thiện” hay nói chung nhân cách của con người bị sứt mẻ nếu hành động và ngôn từ của họ chưa phải là một lời tố cáo và lên án điều Ác.

Với ý tưởng ấy, tôi không thể không nghĩ đến văn hào nổi tiếng của Colombia là Gabriel Garcia Marquez (1927-2014). Sự kiện ông qua đời nhằm vào Tháng Tư Đen của người tỵ nạn cộng sản như tôi lại càng khiến tôi suy nghĩ về “nhân cách” của ông hơn. Trong những ngày vừa qua, không chỉ Colombia mà có lẽ cả thế giới đều vinh danh ông như một trong những văn hào nổi tiếng nhứt của hai thế kỷ 20 và 21 này. Tôi chưa đủ trình độ để nhận định về văn tài của ông. Việc đó đã có Ủy ban Trao tặng Giải Nobel Văn chương làm. Nhiều nhà phê bình văn học trên khắp thế giới cũng đã làm. Riêng tôi, tôi vẫn cứ mãi thắc mắc tại sao tác giả của “Trăm năm cô đơn” này, không biết có phải vì muốn làm một “người hùng cô đơn” chăng, đã suốt một đời kết thân và cúc cung tận tụy với nhà độc tài cộng sản Fidel Castro của Cuba. Ông đã lên tiếng phê bình chủ nghĩa tư bản, ông cũng không tiếc lời lên án các chế độ quân phiệt độc tài, nhứt là tại Châu Mỹ LaTinh. Nhưng trước tội ác của đồ tể Fidel Castro, ông vẫn giữ một  sự thinh lặng khó hiểu. Phải chăng vì ở giữa thiên đàng cộng sản khốn khổ Cuba, ông vẫn có được một ngôi biệt thự sang trọng để giữa đêm khuya lãnh tụ vĩ đại và “kính mến” Castro có thể đến bất cứ lúc nào để phì phà điều xì gà và chuyện vãn thân mật không?
Năm 1968, khi tác phẩm “Trăm năm cô đơn” đưa ông Marquez lên đài danh vọng, thì tại Cuba một thi sĩ nổi tiếng là Heberto Padilla đã cho xuất bản tập thơ với tựa đề “Out of the Game” (bị loại khỏi cuộc chơi). Chủ tịch Castro đã ra lệnh mở chiến dịch tấn công thi sĩ Padilla và tháng 3 năm 1971, bắt giữ ông, tịch thu tất cả các bản thảo của ông và tra tấn ông bằng một cuộc hỏi cung tàn bạo kéo dài cả tháng trời. Sau cuộc tra tấn dã man này, thi sĩ Padilla đã phải “tự thú”, kê khai mọi “tội lỗi” của mình và tố cáo hành động “phản cách mạng” của bạn bè và ngay cả người vợ của mình!

Nhiều nhà trí thức trên khắp thế giới, trong đó có người bạn một thời của ông Marquez là văn sĩ Mario Vargas Llosa, Peru, đã lên tiếng tố cáo trò độc ác dã man của Castro. Khi các bạn văn của ông xin ông ký tên vào một lá thư ngỏ gởi cho chủ tịch Castro để bày tỏ sự “giận dữ và xấu hổ” của họ trước sự đối xử vô nhân đạo đối với thi sĩ Padilla, ông Marquez đã thẳng thừng từ chối. Ông được mọi thứ ân huệ do Castro ban tặng. Và đối lại, ông cũng tung hô và đưa nhà độc tài cộng sản này lên chín tầng mây. Chẳng hạn, năm 1990, ông đã có thể viết về nhà độc tài lâu đời nhứt thế giới này như sau: ông ta là “một người có những thói quen khắc khổ và những giấc mơ không bao giờ có thể thỏa mãn...sử dụng ngôn từ rất cẩn thận và cung cách tế nhị, cũng như không thể cưu mang bất cứ ý tưởng nào mà lại không phi thường”. Chính vì đã không hết lời ca ngợi nhà độc tài cộng sản luôn có “những ý tưởng phi thường” này mà ông đã biện hộ ngay cả những bản án tử hình mà chế độ đã dành cho những nhà bất đồng chính kiến.

Năm 1980, trước áp lực của thế giới, chủ tịch Castro đã để cho thi sĩ Padilla lên đường sang Hoa Kỳ. Trong một cuốn hồi ký, ông Padilla có kể lại rằng ông đã nhờ ông Marquez can thiệp để được giấy xuất cảnh đi Mỹ, nhưng ông này đã thuyết phục ông nên từ bỏ ý định bỏ nước ra đi, bởi vì “những thế lực thù địch của Cuba sẽ lợi dụng sự ra đi của ông để tuyên truyền” chống chế độ!
Sang Mỹ, thi sĩ Padilla đã ngưng sáng tác và chết trong nghèo nàn năm 68 tuổi. Ông đã không có được một nửa tài năng của văn hào Marquez. Nhưng nhiều người vẫn ngưỡng mộ ông hơn một con người, dù thông minh đĩnh đạt, đã không những không lên tiếng tố cáo điều Ác, mà còn bẻ cong ngòi bút của mình để ca tụng một trong những chế độ độc tài tàn bạo nhứt trong lịch sử nhân loại.
Từ việc nhà khôi nguyên Nobel văn chương Gabriel Garcia Marquez qua đời trong Tháng Tư Đen vừa qua, tôi cũng nghĩ đến một nhà văn khác được trao tặng Giải Nobel Văn Chương 2013: nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn. Đây là nhà văn Trung Quốc đầu tiên đoạt giải thưởng cao quý này. Sau khi giải thưởng được công bố, bên cạnh những lời chúc mừng, không ít đồng nghiệp trong và ngoài nước đã lên tiếng chỉ trích dữ dội nhà văn và Hàn Lâm Viện Thụy Điển. Là phó chủ tịch Hội Nhà Văn Trung Quốc, cho nên Mạc Ngôn không thể tránh khỏi danh hiệu “nhà văn quốc doanh” hoặc “bồi bút”. Cũng giống như trường hợp Giải Nobel Hòa Bình được trao tặng cho Lê Đức Thọ (1911-1990), người cộng sản vừa đánh vừa đàm để buộc Hoa Kỳ phải ký hiệp định Paris năm 1973 và thôn tính Miền Nam Việt Nam, Giải Nobel Văn Chương năm 2013 được trao tặng cho Mạc Ngôn được nhiều nhà văn Tây Phương xem như một “thảm họa”.
Trong  chế độ cộng sản, đã là một “cán bộ kiêm công an văn nghệ” cấp cao như ông Mạc Ngôn, thì đương nhiên nếu có mở miệng thì cũng chỉ mở miệng để ca tụng và biện hộ cho chế độ mà thôi.
Sau khi được trao tặng Giải Nobel, nhà văn Mạc Ngôn có dành cho báo Đức “Der Spiegel” một cuộc phỏng vấn trong đó ông giải thích về bút hiệu “Mạc Ngôn” của ông. Ông nói rằng “Mạc Ngôn” có nghĩa là “không nói”. Nói một cách nôm na, trong chế độ cộng sản, “không nói” trong trường hợp của ông cũng chỉ có nghĩa là “câm miệng”. Dĩ nhiên, ông chỉ “câm miệng” trước tội ác của chế độ cộng sản Trung Quốc mà thôi. Dù ông có dùng sự “lợi khẩu” và tài dụng ngữ điêu luyện của một nhà văn để biện hộ về sự “câm miệng” của mình đến đâu, với tôi nhà văn Mạc Ngôn cũng vẫn mãi mãi là một “văn nô”, nếu có mở miệng hay khai bút cũng chỉ để ca tụng và bênh vực chế độ cộng sản và “câm miệng” trước cái Ác đã nhập thể trong chế độ này mà thôi. Ông đã từng ca tụng chế độ kiểm duyệt của nhà nước cộng sản Trung Quốc. Ông  tuyên bố: “Tôi tin rằng sự hạn chế hay kiểm duyệt có ích cho sáng tạo văn chương”. Gần đây, ông lại tham gia chép tay “Bài nói chuyện tại Diên An năm 1942” của chủ tịch Mao Trạch Đông để đề cao “cương lĩnh văn học nghệ thuật giáo điều, bắt buộc văn học nghệ thuật phải phục vụ cho Đảng Cộng Sản. “Ma Chiến Hữu”, cuốn tiểu thuyết viết về cuộc chiến Việt-Trung năm 1979, nằm trong chủ trương đó.

Thái độ “câm miệng” của ông được thể hiện rõ ràng hơn cả qua phản ứng của ông trước đề nghị can thiệp cho nhà văn Lưu Hiểu Ba, nhà bất đồng chính kiến đã được trao tặng Giải Nobel Hòa Bình năm 2010 và hiện đang thọ án 11 năm tù. Dạo tháng 12/2013, một nhóm gồm 134 người đoạt giải Nobel đã ký tên vào một kiến nghị gởi đến Tổng bí thư Tập Cận Bình để yêu cầu trả tự do cho ông Lưu Hiểu Ba và vợ ông, hiện đang bị quản thúc tại gia. Nhóm này đã xin ông Mạc Ngôn ký tên vào bản kiến nghị. Nhưng ông đã tuyên bố rằng ông muốn được “độc lập” cho nên từ chối ký tên vào bản kiến nghị.
Ai đó đã nói rất đúng về thái độ “câm miệng” trước cái Ác của nhà văn Mạc Ngôn như sau: “Ăn theo chính quyền, nghĩ theo chính quyền, ngủ theo chính quyền và giờ đây là phát biểu theo chính quyền”.
Tôi rất thấm thía với suy nghĩ của nhà văn Nguyễn Viện khi ông "nhờ" Đạm Tiên nhận xét thay cho ông về thực trạng của các văn  nghệ sĩ "chính thống": "Trong các chế độ độc tài, văn nghệ sĩ chính thống là kẻ đồng lõa với tội ác" (Nguyễn Viện, Đĩ Thúi, Blog Phạm Thị Hoài, http://www.procontra.asia/?author=1)  
Được trao tặng Giải Nobel Văn Chương cách nhau trên 30 năm: Gabriel Garcia Marquez năm 1982, Mạc Ngôn năm 2013, cả hai nhà văn này không chỉ được liên kết trong “phương pháp sáng tác hiện thực thần kỳ” (magical realism), mà còn gặp nhau trong chính sự “thinh lặng” trước cái Ác. Được trao tặng Giải Nobel Văn Chương thì đương nhiên được rước vào Điện Thờ (Pantheon) dành cho những nhà văn “vĩ đại” của thế giới. Nhưng với riêng tôi, có lẽ danh hiệu “con điếm hạng sang của Fidel Castro” mà nhà văn Mario Vargas Llosa đã có lần dành cho ông Marquez xem ra lại chính xác hơn. “Vĩ đại”, nói như đạo diễn Trần văn Thủy trong cuốn phim “Chuyện Tử Tế”, tôi chưa từng thấy. Tôi chỉ thấy thái độ hèn nhát và vô cảm trước cái Ác đang sờ sờ trước mắt mình.

Mở đầu câu chuyện với hai vị giáo hoàng của Giáo hội công giáo vừa được phong thánh, tôi cũng liên tưởng đến đương kim giáo hoàng là Đức Phanxicô. Trong một chuyến viếng thăm hồi năm ngoái  tại thị trấn Lampedusa, miền Nam nước Ý, nơi những người tầm trú từ Bắc Phi và Phi Châu thường dùng thuyền tìm đến như một cửa ngõ để vào Âu Châu, vị giáo hoàng này đã nói đến sự dửng dưng của con người thời đại bằng một câu đáng suy nghĩ: “Chúng ta là một xã hội đã quên khóc”.

Tôi không biết hai nhà văn  Gabriel Garcia Marquez và Mạc Khôn có bao giờ khóc trước tội ác mà các chế độ cộng sản đã gây ra cho nhân loại không. Nhưng tôi nghĩ rằng con người vĩ đại, không phải vì những thành tựu hiển hách trong bất cứ lãnh vực nào, mà chính là vì họ còn biết “khóc” trước nỗi khổ đau của người đồng loại. Tôi không bao giờ quên được “lời dạy” chí lý của ông tổ Marxit: “Chỉ có súc vật mới quay mặt làm ngơ trước nỗi khổ của đồng loại để chăm sóc cho bộ da riêng của mình”.


 Chu Thập 30.4.2014


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét