Tối Chúa Nhựt 27/4/2014 vừa qua, Đài Truyền Hình ABC đã cho trực tiếp truyền
hình buổi lễ phong thánh cho hai vị giáo hoàng của Giáo hội Công giáo. Vị thứ
nhứt là Đức Gioan XXIII (1881-1963), nổi bật với tinh thần cởi mở, sự khiêm tốn
và lòng nhân ái. Vị thứ hai là Đức Gioan Phaolô II (1920-2005) được Giáo hội
công giáo đề cao vì rất nhiều “nhân đức” mà các tín hữu ngày nay có thể noi
theo. Riêng tôi, một người tỵ nạn cộng sản và thế giới nói chung, đặc biệt chú
ý đến sự góp phần lớn lao của vị giáo hoàng người Balan này trong việc đánh đổ
các chế độ cộng sản tại quê hương của ngài và cả Đông Âu.
Với tôi, “thánh” trước tiên phải là một người triệt để chống lại cái Ác mà
hiện thân là các chế độ độc tài, dù là cộng sản, quân phiệt hay dưới bất cứ
hình thức nào. Không biết đây có phải là lý do khiến Giáo hội công giáo do dự
trong tiến trình phong thánh cho vị tiền nhiệm của Đức Gioan XXIII là Đức Piô XII (1875- 1958) không. Mặc dù rất nhiều tài liệu từ văn khố của Tòa thánh
Vatican được bạch hóa đã cho thấy vị giáo hoàng này đã kín đáo cứu vớt rất nhiều
người Do Thái tại Roma trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, nhưng với rất nhiều người
Do Thái hiện nay, ngài vẫn là một người “đồng lõa” của Hitler và Đức Quốc Xã
trong chủ trương diệt chủng. Tại bảo tàng viện Yas Vashem ở thủ đô Tel Aviv,
Israel, trong đó có hầu hết tên tuổi của gần 6
triệu người Do Thái bị Đức Quốc Xã sát hại trong các trại
tập trung và lò sát sinh, người ta lại thấy tên của vị giáo hoàng này trong
hàng ngũ những tên đồ tể Đức Quốc Xã. Lý do duy nhứt là bởi vì ngài đã không
chính thức lên tiếng tố cáo tội ác của Hitler và Đức Quốc Xã. Tòa Thánh Vatican
vẫn biện minh rằng sở dĩ Đức Piô XII đã không viết bất cứ một thông điệp nào để lên án Đức Quốc
Xã là bởi vì dựa trên nguyên tắc “giữa hai cái xấu không thể tránh được, nên chọn
điều ít xấu hơn”, ngài sợ Hitler sẽ trả đũa, tòa thánh Vatican có thể bị dội
bom và tình trạng của Giáo hội tại Âu Châu sẽ tồi tệ hơn. Nhưng cho tới nay, hầu
hết những người Do Thái trên thế giới vẫn không chấp nhận lời biện hộ này. Với
họ, vị giáo hoàng này, vì những lý do “thầm kín”, đã để cho Đức Quốc Xã tiêu diệt
một dân tộc mà đã có lúc trong Phong Trào bài Do Thái, nhiều tín hữu Kitô tại
Âu Châu xem như “những kẻ giết Chúa” đáng nguyền rủa!
Tôi tin rằng rồi đây lịch sử sẽ làm sáng tỏ hồ sơ của Đức Piô 12. Nhưng sự
kiện Tòa thánh Vatican, cho tới nay, vẫn chưa “phong thánh” cho vị giáo hoàng
này gợi lên trong tôi một suy nghĩ: sự
“thánh thiện” hay nói chung nhân cách của con người bị sứt mẻ nếu hành động và
ngôn từ của họ chưa phải là một lời tố cáo và lên án điều Ác.
Với ý tưởng ấy, tôi không thể không nghĩ đến văn hào nổi tiếng của Colombia
là Gabriel Garcia Marquez (1927-2014). Sự kiện ông qua đời nhằm vào Tháng Tư Đen của người tỵ nạn
cộng sản như tôi lại càng khiến tôi suy nghĩ về “nhân cách” của ông hơn. Trong
những ngày vừa qua, không chỉ Colombia mà có lẽ cả thế giới đều vinh danh ông
như một trong những văn hào nổi tiếng nhứt của hai thế kỷ 20 và 21 này. Tôi
chưa đủ trình độ để nhận định về văn tài của ông. Việc đó đã có Ủy ban Trao tặng
Giải Nobel Văn chương làm. Nhiều nhà phê bình văn học trên
khắp thế giới cũng đã làm. Riêng tôi, tôi vẫn cứ mãi thắc mắc tại sao tác giả của
“Trăm năm cô đơn” này, không biết có phải vì muốn làm một “người hùng cô đơn”
chăng, đã suốt một đời kết thân và cúc cung tận tụy với nhà độc tài cộng sản
Fidel Castro của Cuba. Ông đã lên tiếng phê bình chủ nghĩa tư bản, ông cũng
không tiếc lời lên án các chế độ quân phiệt độc tài, nhứt là tại Châu Mỹ
LaTinh. Nhưng trước tội ác của đồ tể Fidel Castro, ông vẫn giữ một sự
thinh lặng khó hiểu. Phải chăng vì ở giữa thiên đàng cộng sản khốn khổ Cuba,
ông vẫn có được một ngôi biệt thự sang trọng để giữa đêm khuya lãnh tụ vĩ đại
và “kính mến” Castro có thể đến bất cứ lúc nào để phì phà điều xì gà và chuyện
vãn thân mật không?
Năm 1968, khi tác phẩm “Trăm năm cô đơn” đưa ông Marquez lên đài danh vọng, thì
tại Cuba một thi sĩ nổi tiếng là Heberto Padilla đã cho xuất bản tập thơ với tựa
đề “Out of the Game” (bị loại khỏi cuộc chơi). Chủ tịch Castro đã ra lệnh mở
chiến dịch tấn công thi sĩ Padilla và tháng 3 năm 1971,
bắt giữ ông, tịch thu tất cả các bản thảo của ông và tra
tấn ông bằng một cuộc hỏi cung tàn bạo kéo dài cả tháng trời. Sau cuộc tra tấn
dã man này, thi sĩ Padilla đã phải “tự thú”, kê khai mọi “tội lỗi” của mình và
tố cáo hành động “phản cách mạng” của bạn bè và ngay cả người vợ của mình!
Nhiều nhà trí thức trên khắp thế giới, trong đó có người bạn một thời của
ông Marquez là văn sĩ Mario Vargas Llosa, Peru, đã lên tiếng tố cáo trò độc ác
dã man của Castro. Khi các bạn văn của ông xin ông ký tên vào một lá thư ngỏ gởi cho chủ tịch Castro để bày tỏ sự “giận dữ và xấu hổ”
của họ trước sự đối xử vô nhân đạo đối với thi sĩ Padilla, ông Marquez đã thẳng
thừng từ chối. Ông được mọi thứ ân huệ do Castro ban tặng. Và đối lại, ông cũng
tung hô và đưa nhà độc tài cộng sản này lên chín tầng mây. Chẳng hạn, năm 1990,
ông đã có thể viết về nhà độc tài lâu đời nhứt thế giới này như sau: ông ta là
“một người có những thói quen khắc khổ và những giấc mơ không bao giờ có thể thỏa
mãn...sử dụng ngôn từ rất cẩn thận và cung cách tế nhị, cũng như không thể cưu
mang bất cứ ý tưởng nào mà lại không phi thường”. Chính vì đã không hết lời ca
ngợi nhà độc tài cộng sản luôn có “những ý tưởng phi thường” này mà ông đã biện
hộ ngay cả những bản án tử hình mà chế độ đã dành cho những nhà bất đồng chính
kiến.
Năm 1980, trước áp lực của thế giới, chủ tịch Castro đã để cho thi sĩ
Padilla lên đường sang Hoa Kỳ. Trong một cuốn hồi ký, ông Padilla có kể lại rằng
ông đã nhờ ông Marquez can thiệp để được giấy xuất cảnh đi Mỹ, nhưng ông này đã
thuyết phục ông nên từ bỏ ý định bỏ nước ra đi, bởi vì “những thế lực thù địch
của Cuba sẽ lợi dụng sự ra đi của ông để tuyên truyền” chống chế độ!
Sang Mỹ, thi sĩ Padilla đã ngưng sáng tác và chết trong nghèo nàn năm 68 tuổi.
Ông đã không có được một nửa tài năng của văn hào Marquez. Nhưng nhiều người vẫn
ngưỡng mộ ông hơn một con người, dù thông minh đĩnh đạt, đã không những không
lên tiếng tố cáo điều Ác, mà còn bẻ cong ngòi bút của mình để ca tụng một trong
những chế độ độc tài tàn bạo nhứt trong lịch sử nhân loại.
Từ việc nhà khôi nguyên Nobel văn chương Gabriel Garcia Marquez qua đời
trong Tháng Tư Đen vừa qua, tôi cũng nghĩ đến một nhà văn khác được trao tặng
Giải Nobel Văn Chương 2013: nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn. Đây là nhà văn Trung
Quốc đầu tiên đoạt giải thưởng cao quý này. Sau khi giải thưởng được công bố, bên
cạnh những lời chúc mừng, không ít đồng nghiệp trong và ngoài nước đã lên tiếng
chỉ trích dữ dội nhà văn và Hàn Lâm Viện Thụy Điển. Là phó chủ tịch Hội Nhà Văn
Trung Quốc, cho nên Mạc Ngôn không thể tránh khỏi danh hiệu “nhà văn quốc
doanh” hoặc “bồi bút”. Cũng giống như trường hợp Giải Nobel Hòa Bình được trao
tặng cho Lê Đức Thọ (1911-1990), người cộng sản vừa đánh vừa đàm để buộc Hoa Kỳ
phải ký hiệp định Paris năm 1973 và thôn tính Miền Nam Việt Nam, Giải Nobel Văn
Chương năm 2013 được trao tặng cho Mạc Ngôn được nhiều nhà văn Tây Phương xem
như một “thảm họa”.
Trong chế độ cộng sản, đã là một
“cán bộ kiêm công an văn nghệ” cấp cao như ông Mạc Ngôn, thì đương nhiên nếu có
mở miệng thì cũng chỉ mở miệng để ca tụng và biện hộ cho chế độ mà thôi.
Sau khi được trao tặng Giải Nobel, nhà văn Mạc Ngôn có dành cho báo Đức
“Der Spiegel” một cuộc phỏng vấn trong đó ông giải thích về bút hiệu “Mạc Ngôn”
của ông. Ông nói rằng “Mạc Ngôn” có nghĩa là “không nói”. Nói một cách nôm na,
trong chế độ cộng sản, “không nói” trong trường hợp của ông cũng chỉ có nghĩa
là “câm miệng”. Dĩ nhiên, ông chỉ “câm miệng” trước tội ác của chế độ cộng sản
Trung Quốc mà thôi. Dù ông có dùng sự “lợi khẩu” và tài dụng ngữ điêu luyện của
một nhà văn để biện hộ về sự “câm miệng” của mình đến đâu, với tôi nhà văn Mạc
Ngôn cũng vẫn mãi mãi là một “văn nô”, nếu có mở miệng hay khai bút cũng chỉ để
ca tụng và bênh vực chế độ cộng sản và “câm miệng” trước cái Ác đã nhập thể
trong chế độ này mà thôi. Ông đã từng ca tụng chế độ kiểm duyệt của nhà nước cộng
sản Trung Quốc. Ông tuyên bố: “Tôi tin rằng
sự hạn chế hay kiểm duyệt có ích cho sáng tạo văn chương”. Gần đây, ông lại
tham gia chép tay “Bài nói chuyện tại Diên An năm 1942” của chủ tịch Mao Trạch
Đông để đề cao “cương lĩnh văn học nghệ thuật giáo điều, bắt buộc văn học nghệ
thuật phải phục vụ cho Đảng Cộng Sản. “Ma Chiến Hữu”, cuốn tiểu thuyết viết về
cuộc chiến Việt-Trung năm 1979, nằm trong chủ trương đó.
Thái độ “câm miệng” của ông được thể hiện rõ ràng hơn cả qua phản ứng của
ông trước đề nghị can thiệp cho nhà văn Lưu Hiểu Ba, nhà bất đồng chính kiến đã
được trao tặng Giải Nobel Hòa Bình năm 2010 và hiện đang thọ án 11 năm tù. Dạo
tháng 12/2013, một nhóm gồm 134 người đoạt giải Nobel đã ký tên vào một kiến
nghị gởi đến Tổng bí thư Tập Cận Bình để yêu cầu trả tự do cho ông Lưu Hiểu Ba
và vợ ông, hiện đang bị quản thúc tại gia. Nhóm này đã xin ông Mạc Ngôn ký tên
vào bản kiến nghị. Nhưng ông đã tuyên bố rằng ông muốn được “độc lập” cho nên từ
chối ký tên vào bản kiến nghị.
Ai đó đã nói rất đúng về thái độ “câm miệng” trước cái Ác của nhà văn Mạc
Ngôn như sau: “Ăn theo chính quyền, nghĩ theo chính quyền, ngủ theo chính quyền
và giờ đây là phát biểu theo chính quyền”.
Tôi rất thấm thía với suy nghĩ của nhà văn Nguyễn Viện khi ông "nhờ" Đạm Tiên nhận xét thay cho ông về thực trạng của các văn nghệ sĩ "chính thống": "Trong các chế độ độc tài, văn nghệ sĩ chính thống là kẻ đồng lõa với tội ác" (Nguyễn Viện, Đĩ Thúi, Blog Phạm Thị Hoài, http://www.procontra.asia/?author=1)
Tôi rất thấm thía với suy nghĩ của nhà văn Nguyễn Viện khi ông "nhờ" Đạm Tiên nhận xét thay cho ông về thực trạng của các văn nghệ sĩ "chính thống": "Trong các chế độ độc tài, văn nghệ sĩ chính thống là kẻ đồng lõa với tội ác" (Nguyễn Viện, Đĩ Thúi, Blog Phạm Thị Hoài, http://www.procontra.asia/?author=1)
Được trao tặng Giải Nobel Văn Chương cách nhau trên 30 năm: Gabriel Garcia
Marquez năm 1982, Mạc Ngôn năm 2013, cả hai nhà văn này không chỉ được liên kết
trong “phương pháp sáng tác hiện thực thần kỳ” (magical realism), mà còn gặp
nhau trong chính sự “thinh lặng” trước cái Ác. Được trao tặng Giải Nobel Văn
Chương thì đương nhiên được rước vào Điện Thờ (Pantheon) dành cho những nhà văn
“vĩ đại” của thế giới. Nhưng với riêng tôi, có lẽ danh hiệu “con điếm hạng sang
của Fidel Castro” mà nhà văn Mario Vargas Llosa đã có lần dành cho ông Marquez
xem ra lại chính xác hơn. “Vĩ đại”, nói như đạo diễn Trần văn Thủy trong cuốn
phim “Chuyện Tử Tế”, tôi chưa từng thấy. Tôi chỉ thấy thái độ hèn nhát và vô cảm
trước cái Ác đang sờ sờ trước mắt mình.
Mở đầu câu chuyện với hai vị giáo hoàng của Giáo hội công giáo vừa được
phong thánh, tôi cũng liên tưởng đến đương kim giáo hoàng là Đức Phanxicô.
Trong một chuyến viếng thăm hồi năm ngoái tại thị trấn Lampedusa, miền Nam nước Ý, nơi
những người tầm trú từ Bắc Phi và Phi Châu thường dùng thuyền tìm đến như một cửa
ngõ để vào Âu Châu, vị giáo hoàng này đã nói đến sự dửng dưng của con người thời
đại bằng một câu đáng suy nghĩ: “Chúng ta là một xã hội đã quên khóc”.
Tôi không biết hai nhà văn Gabriel
Garcia Marquez và Mạc Khôn có bao giờ khóc trước tội ác mà các chế độ cộng sản
đã gây ra cho nhân loại không. Nhưng tôi nghĩ rằng con người vĩ đại, không phải
vì những thành tựu hiển hách trong bất cứ lãnh vực nào, mà chính là vì họ còn
biết “khóc” trước nỗi khổ đau của người đồng loại. Tôi không bao giờ quên được
“lời dạy” chí lý của ông tổ Marxit: “Chỉ có súc vật mới quay mặt làm ngơ trước
nỗi khổ của đồng loại để chăm sóc cho bộ da riêng của mình”.
Chu Thập 30.4.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét