Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2014

Cái hôn của người say rượu





Triết lý, nếu được hiểu một cách thông thường và đơn giản như một cách nhìn đời hay một nghệ thuật sống, thì chắc chắn những người đi câu cá hẳn phải có một thứ triết lý riêng.
Thành phố nơi tôi đang sống có nhiều kỷ lục. Người ta nói rằng đây là thành phố có tỷ lệ thất nghiệp không những cao nhứt tiểu bang New South Wales và mà còn đứng đầu toàn quốc. Có người còn nói đây là thành phố có nhiều người già sinh sống nhứt. Nhưng đáng suy nghĩ hơn cả là hiện tượng tự tử nơi giới trẻ mà người ta cũng cho là cao nhứt nước.
Riêng tôi, sau hơn một phần tư thế kỷ bôn ba không dưới năm bảy thành phố trên thế giới, tôi còn tặng thêm cho thành phố này một kỷ lục khác được tôi chấm dựa trên kinh nghiệm bản thân: đây là thành phố kỳ thị nhứt. Ở đây, ngoại trừ một số phụ nữ Phi luật tân lấy chồng Úc hay làm y tá trong các bệnh viện và viện dưỡng lão, số người Á đông có lẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thỉnh thoảng, thấy có một thương hiệu đề “Hot Bread”, mới biết có người Việt nam.
Lúc mới dọn về đây, tôi rất cảm kích trước lòng hiếu khách của người bản xứ: ra đường, gặp bất cứ người đứng tuổi nào, mình cũng được chào hỏi. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, tôi khám phá ra một thực tế phũ phàng: người trẻ của thành phố này “kỳ thị” ra mặt. Trong vòng một tháng, tôi bị tấn công ít nhứt  bốn lần. Lần đầu tiên, đang đứng chờ xe lửa, tôi bị một cô gái choai choai đi ngang trước mặt, hất một cái vào hông muốn rơi xuống đường rầy xe lửa. Lần khác, đang đi bách bộ trên lề đường, tôi bị ba cô cậu đang ở tuổi vị thành niên, chửi thẳng vào mặt bằng những lời lẽ thô tục. Hai lần khác, cũng đang đi trên đường, tôi bị một nhóm thanh niên từ trong xe thò đầu ra la hét.
Có điếc hay khờ khạo lắm cũng biết rằng nhóm thanh niên này có thái độ kỳ thị ra mặt. Nhiều lần, tôi định viết thư gởi đến mấy tờ báo địa phương để góp ý xây dựng. Nhưng nghĩ lại thấy cần có thời gian để quan sát và nhứt là để nhìn lại bản thân và tự điều chỉnh, nên tôi chần chừ. Biết đâu, lỗi tại mình mà người khác có phản ứng kỳ thị?
Thật ra, tôi cũng nghĩ rằng đây là một thách đố để mình chiến đấu và vượt qua khỏi chính mình. Bao lâu mình còn để cho những chuyện không ra gì ấy làm bận tâm thì mình sẽ là người thua cuộc thôi.
Cuối cùng thì tôi cũng tìm được một chút ánh sáng trong việc câu cá.Tôi cảm thấy mình thật sự được “chúc phúc” khi dọn về thành phố này. Người Việt nam gọi đất nước là “giang sơn”: ở đâu có núi sông  thì ở đó có quê hương. Lớn lên ở đồng quê, sau lưng là núi, phía trước là sông cho nên khi về thành phố này, tôi thấy như thể tìm lại được một chút quê hương. Thật vậy, chỉ cần đi năm ba bước, tôi đã có thể thấy có sông nước, ao hồ để,nếu không  thả câu, thì ít nhứt cũng có thể ngồi ngắm cảnh trời mây sông nước.

Câu cá không chỉ để giải trí hay, nói theo kiểu nói quen thuộc ở Việt nam hiện nay,  để “cải thiện”, nghĩa là có thêm đồ biển cho một chế độ dinh dưỡng quá thừa mứa thịt thà. Câu cá còn là dịp để giao lưu. Ở bãi câu, người ta chẳng còn phân biệt màu da, chủng tộc nữa. Một chiếc cần câu quăng ra dòng nước cũng thường đi kèm với một lời chào hỏi và san sẻ, khởi đi từ chuyện câu cá đến đủ mọi đề tài trong cuộc sống. Người này kéo được con cá cũng tạo thêm niềm vui và phấn khởi cho người khác. Nhiều lúc người ta giúp nhau kéo một con cá lớn lên bờ.Tình liên đới giữa những người câu cá là chuyện dễ thực thi nhứt. Óc kỳ thị chủng tộc xem ra cũng không có chỗ đứng nơi bãi câu.

Tôi thường đi câu cá với nhiều hy vọng: hy vọng được nhiều cá đã dành, mà cũng hy vọng gặp lại một người bạn câu hay có thêm một người bạn mới.

Một hôm, sau nhiều ngày gió chướng, không chịu nổi cảnh bó chân trong nhà cho nên muốn thử thời vận và thách thức những  luật bất thành văn của các cao thủ trong nghệ thuật câu cá, tôi mang hành trang ra đi. Vác cần ra chỗ câu quen thuộc, tôi tưởng mình sẽ là ngư ông duy nhứt. Nhưng vừa đến nơi, tôi đã thấy có hai người mà tôi không nghĩ là dân chuyên nghiệp. Hình như họ đến đây để giải sầu hơn là câu cá.Từ xa, tôi đã nghe men rượu nồng nặc xông tới. Mặt mũi râu ria, bậm trợn và tấm thân to bự để trần lộ ra những hình xâm, khiến tôi phải khựng lại.Thế nhưng các đệ tử của Lưu Linh đã đánh tan sự nghi ngại của tôi: họ nhoẻn miệng nở nụ cười thân thiện và cho biết rằng họ đã có mặt tại bãi câu hơn ba tiếng đồng hồ mà chỉ bắt được một con cá hanh nhỏ. Cảm thấy an tâm vì thái độ cởi mở của hai người bạn mới, tôi bắt đầu đưa kinh nghiệm lâu năm trong nghề ra để góp ý và trao đổi.

Sách hướng dẫn câu cá có tựa đề “The Australian Fisheman” của tác giả Harold Vaughan có khuyên rằng, sau 20 phút thả câu mà không thấy động đậy thì nên cuốn cần câu đi về hoặc đi một nơi khác để không đánh mất “hứng khởi”. Nhớ lại nguyên tắc ấy, sau đúng hai mươi phút tôi thu cần và đứng lên chào từ giã hai ông bạn câu mới.

Thấy tôi chuẩn bị về, hai ông bạn mới của tôi cũng đứng lên xin quá giang một đoạn đến trạm xe lửa.Tôi thông cảm với dân nghiện rượu mà còn  giữ tinh thần thượng tôn pháp luật: nếu đã uống quá chén, họ thà gọi taxi hay đi xe lửa hơn là lái xe. Mặc dầu đi về hai hướng khác nhau, tôi cũng cảm thấy vui khi được đưa hai ông bạn đến ga xe lửa. Một  ông còn “dụ khị”: “Ông cho tụi tôi đến ga rồi sẵn tiện ghé câu thêm một bãi khác chứ về nhà sớm làm chi?” Tưởng tôi là người Tàu, hai ông bạn lại xổ nho “Nị hảo ma?” Tôi đính chính: tôi không phải là người Tàu, mà là người Việt. Vậy là một trong hai ông reo lên: “Tôi có một người bạn Việt nam ở King Cross”. Nghe đến địa danh này, tôi thấy nổi da gà. Nhưng không hiểu tại sao tôi vẫn tiếp tục tin tưởng ở sự chân thành của hai người đàn ông xa lạ này.

Xuống xe, bất thần một ông ôm lấy tôi, trao cho tôi một cái hôn nồng nặc mùi rượu kèm với lời cám ơn và câu chúc “good luck”.
Người đàn ông làm cử chỉ này nhanh quá khiến tôi không kịp phản ứng và cũng chẳng kịp suy nghĩ. Cho đến năm 1981, khi bỏ nước ra đi, tôi chưa hề có bất cứ một ý niệm gì về đồng tính. Cùng lắm, thỉnh thoảng tôi chỉ gặp một vài người “lại cái”, nghĩa là những người đàn ông có điệu bộ yểu điệu như đàn bà con gái. Phần lớn những người này cũng có vợ và sinh con đẻ cái như những người đàn ông khác.Tuyệt nhiên, tôi không hề hay biết rằng bên cạnh những người đàn ông lại cái ấy, còn có những bậc mày râu, tướng tá hùng dũng, nhưng lại chỉ thích đàn ông. Tôi chỉ biết trên thế giới có một hạng người như thế kể từ khi va chạm với thế giới Tây phương. Ý thức về sự hiện hữu của loại đàn ông ấy, tự nhiên tôi cảm thấy phải “dè dặt” trong cách cư xử với chính người cùng phái và trẻ con. Lúc còn trong nước, tôi cũng tự nhiên như mấy anh bộ đội: choàng cổ, bá vai, nắm tay đàn ông thanh niên mà chẳng thấy sợ bị ai dòm ngó. Nhưng ra nước ngoài, tự nhiên tôi bị buộc phải cân nhắc và không ngừng đề cao cảnh giác trong khi tiếp xúc với “phe ta”.

Chính trong sự dè dặt ấy mà tôi tiếp nhận một cách thụ động cái hôn bất ngờ của người bạn câu mới. Nhưng không hiểu tại sao hôm ấy, tôi không xem cái hôn ấy như một thể hiện tự nhiên của một người đồng tính hay như một cử chỉ “hữu nghị ” mầu mè và giả dối của những người cộng sản trong khối “xã hội chủ nghĩa anh em”.Tôi chỉ đón nhận nó như một thể hiện chân tình của một người bạn đối với một người bạn. Hơn thế nữa, tôi còn xem đó như một “chúc phúc” dành cho một nghĩa cử mình vừa làm.


Cái hôn của người bạn câu say rượu này làm tôi nhớ lại buổi câu cá tại Port Douglas cách đây không lâu: có hai cậu bé độ 7, 8 tuổi đi câu mà không có mồi, lại cũng chẳng biết cột lưỡi câu.Thỉnh thoảng chúng lại liếc nhìn sang tôi với ánh mắt khẩn khoản van xin.Thấy thế, tôi liền bỏ câu đến tóm lưỡi câu và chia sẻ một ít mồi câu cho hai cậu bé. Buổi chiều hôm đó, tôi được một mẻ cá nhiều hơn bao giờ hết.
Nghĩ lại “phép lạ” này, tự nhiên tôi cũng tin rằng có lẽ ông “thiên thần say rượu” muốn mách bảo tôi tiếp tục đi câu. Tôi liền dừng xe và tìm đến một chỗ mà bình thường những người “sát cá” mấy cũng chẳng câu được con nào.Vậy mà chiều hôm đó, tôi cầm về khoe với vợ một con cá hanh gần hai ký, con cá hanh lớn nhứt trong sự nghiệp câu cá của tôi.

Lần sau, trước khi tôi ra bãi câu, vợ tôi cũng ôm hôn tôi một cái và cũng nói “good luck”. Nhưng hôm đó tôi chẳng kéo được con cá nào.Tôi ngẫm nghĩ: mình làm cử chỉ đẹp đâu phải để được đền đáp; tự nó mỗi một nghĩa cử mình làm được cũng đã là một phần thưởng rồi.

Triết lý câu cá ấy lại đưa tôi về với những lần bị đám thanh niên kỳ thị tấn công. Lần này, tôi tự nhủ: mình đã không mong được đền đáp vì một nghĩa cử làm cho người khác, thì cũng chẳng nên mất ăn mất ngủ vì một sự đối xử tệ của người đời. Nhìn dưới một khía cạnh khác, nếu không để bị lung lay thì dù không hy vọng trở thành triết gia cũng vẫn có thể ung dung tiếp tục đi câu cá và “câu” những người bạn chân tình.
 Chu Thập 21.10.2009

                                                                         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét