Chu Văn
Đầu tháng Sáu vừa qua (2020), Quốc hội Bồ Đào Nha đã đồng
thanh bỏ phiếu để dựng một đài tưởng niệm cho ông Aristides de Sousa Mendes, vị
tổng lãnh sự đã từng cứu vớt hàng ngàn người Do Thái khỏi cuộc diệt chủng do Đức
Quốc Xã chủ xướng trong thời Đệ nhị Thế chiến. Năm 1995, tổng thống Bồ Đào Nha
lúc bấy giờ là ông Mario Soares cũng đã tuyên bố: ông Sousa Mendes là “vị anh
hùng Bồ Đào Nha vĩ đại nhứt trong Thế kỷ 20”. Vì không tuân hành lệnh của nhà độc
tài Antonio de Oliveira Salazar để cứu vớt người Do Thái, ông Sousa Mendes đã bị
cách chức, lâm cảnh nghèo đói và qua đời trong tăm tối.
Khi được hỏi: động lực nào đã thúc đẩy ông sẵn sàng hy
sinh sự nghiệp và mọi sự để cứu vớt người Do Thái, ông Sousa Mendes đã trả lời:
“Nếu hàng ngàn người Do Thái đang đau khổ vì một tín hữu Kitô, thì chắc chắn một tín hữu
Kitô cũng có thể chịu đau khổ cho nhiều người Do Thái” (1)
Người tín hữu Kitô làm cho hàng ngàn người Do Thái phải
đau khổ mà ông Sousa Mendes ám chỉ đến không ai khác hơn là đồ tể Adolf Hitler.
Xuyên suốt dòng lịch sử nhân loại, các chính trị gia thường
sử dụng ngôn ngữ tôn giáo để kiếm lá phiếu của cử tri. Một lãnh tụ hàng đầu thế
giới đã tỏ ra rất hữu hiệu trong việc sử dụng ngôn ngữ tôn giáo. Hãy lắng nghe
ông nói: “Trong giờ phút này, tôi chỉ muốn xin Thiên Chúa một điều duy nhứt là:
xin Ngài chúc lành cho công việc của chúng ta và ban cho chúng ta có đủ can đảm
để làm điều ngay lẽ phải. Tôi xác tín rằng được Thiên Chúa tạo dựng, con người
phải sống phù hợp với ý muốn của Đấng Toàn Năng. Không ai có thể kiến tạo thế
giới nếu chương trình và sức mạnh của họ không được Đấng Quan Phòng chúc phúc”.
Nhà lãnh đạo đã từng đọc tuyên ngôn trên đây không ai
khác hơn là Hitler (1889-1945). Đây là một trích đoạn trong bài diễn văn của
ông năm 1937, tức 4 năm sau khi được bầu làm thủ tướng Đức. Trong các bài diễn
văn của ông, Hitler đã không ngừng kêu gọi người dân yêu thương tha nhân, quan
tâm đến những người nghèo khổ bệnh hoạn cũng như đứng lên chống lại bạo lực.
Trong quyển tiểu sử “Hitler, God and the Bible” (Hitler, Thiên Chúa và Kinh
Thánh), tác giả Ray Comfort viết rằng
“những bài diễn văn của Hitler tràn đầy hy vọng”. Hitler luôn tuyên bố: “Tôi
tin rằng tôi hành động theo ý của Đấng Tạo Hóa Toàn Năng”. Người đã từng sát tế
6 triệu người Do Thái thường tự nhận mình là một “môn đệ” của Chúa Kitô. Đây là
niềm tin mà ông đã tuyên xưng ngay từ năm 1925 khi cho xuất bản quyển tiểu sử tự
thuật và đồng thời cũng là bản tuyên ngôn của ông có tựa đề “Mein Kampf” (cuộc
chiến của tôi). Trong cuốn sách, Hitler tuyên bố rõ ràng: “Kể từ hôm nay, tôi
tin rằng tôi đang hành động phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hóa Toàn Năng: tự vệ
chống lại người Do Thái là chiến đấu cho công trình của Chúa”.
Hitler, con người bị xem là xấu xa, đồi bại và độc ác nhứt
trong lịch sử nhân loại đã được rửa tội trong Giáo hội Công giáo. Ông đã từng
là một cậu bé giúp lễ và ngay cả cũng có lúc muốn trở thành một linh mục công
giáo. Để tỏ tình liên đới với Giáo hội Công giáo, năm 1933, ông đã ký một thỏa
ước với Tòa thánh Vatican. Theo tác giả Comfort, với thỏa ước này, Giáo hội
Công giáo bày tỏ sự ủng hộ dành cho Hitler và đối lại Hitler cam kết bảo đảm tự
do tôn giáo cho Giáo hội. Cũng với thỏa ước này, Hitler đã bày tỏ nhiều mỹ cảm
về Kitô Giáo. Ông nói rằng ông thù ghét chủ nghĩa vô thần và cam kết sẽ tiêu diệt
chủ nghĩa này tại Đức.
Vào năm 1933, khi Hitler mới lên cầm quyền, kinh tế của Đức
đang ở tình trạng rơi tự do, tỷ lệ thất nghiệp lên đến mức trên 30 phần trăm. Đức
đang cần một vị cứu tinh và Hitler đã cương quyết trở thành vị cứu tinh ấy.
Kinh tế Đức dần đần được khôi phục và dĩ nhiên quyền lực của Hitler cũng ngày
càng được củng cố. Nhưng đây cũng chính là lúc sự khoan nhượng tôn giáo dần dần
biến mất, Kitô giáo đã được thay thế bằng một tôn giáo mới trong đó không có
Chúa nào khác ngoài Hitler. Lớp lông cừu của một tín hữu Kitô đã được cất đi,
con chó sói Hitler đã hiện nguyên hình (2).
Sinh trước Hitler khoảng
12 năm, Joseph Stalin (1876-1953), một đồ tể khát máu không kém ông cũng
đã từng là một tín hữu Kitô. Như tên “Joseph” của ông đã có thể gợi lên, Stalin
đã được người mẹ rất đạo đức của ông đặt tên theo một trong những vị thánh nổi
tiếng nhứt trong Kitô Giáo là thánh Giuse (Joseph), phu quân của Đức Maria, Mẹ
Chúa Giêsu. Như chính ông đã từng tiết lộ, cha ông là một linh mục Chính thống
giáo. Lúc trẻ, người thanh niên Stalin cũng đã từng thụ huấn năm năm trong một
chủng viện Chính thống giáo với ước vọng
trở thành một linh mục trong Giáo hội này.
Tên tuổi của người đã từng muốn làm linh mục này lại gắn
liền với chế độ lao tù khổ sai khủng khiếp nhứt trong lịch sử nhân loại thường
được biết đến với tên gọi “Gulag” (viết tắt từ cụm từ Glavnoe Upravlenie Lagerei, nghĩa là Hệ thống
Quản lý trại tù khổ sai) và được vạch trần trong quyển tiểu thuyết “Quần đảo
Gulag” của văn hào Aleksandr Solzhenitsyn (1918-2008). Được thiết lập dưới thời
Lenin, nhưng hệ thống lao tù khổ sai này đã đạt đến cao điểm trong thời gian
Stalin cầm quyền tại Liên Xô, tức từ năm 1930 đến năm 1953, năm ông qua đời.
Trong giai đoạn này người ta tính có khoảng 18 triệu người bị giam giữ trong
hàng trăm trại tù trên toàn lãnh thổ Liên Xô, nhứt là tại Tây Bá Lợi Á, mỗi trại
giam từ 2000 đến 10.000 tù nhân. Họ phải lao động mỗi ngày suốt 14 tiếng đồng hồ,
trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhứt. Rất nhiều người chết vì đói
và kiệt sức, hoặc ngay cả bị xử tử. Theo ước tính, đã có khoảng trên dưới 2 triệu
người chết trong các trại tù khổ sai dưới thời Stalin.
Ngoài ra, tên tuổi của Stalin còn gợi lên nạn đói khủng
khiếp tại Ukraine trong 2 năm 1932 và 1933. Khác với những nạn đói khác trong lịch
sử nhân loại mà nguyên nhân thường là thiên tai, nạn đói tại Ukraine dưới thời
Stalin do chính ông gây ra nhằm thay thế các tiểu nông bằng những hợp tác xã quốc
doanh cũng như để trừng trị người dân
Ukraine vì họ tranh đấu giành độc lập chống lại chế độ độc tài của ông. Theo ước
tính, nạn đói do Stalin tạo ra tại Ukraine đã cướp đi mạng sống của khoảng 3.9
triệu người (3).
Cũng như Hitler đã từng ký thỏa ước với tòa thánh Vatican
để tìm kiếm sự hậu thuẫn của người công giáo, vào năm 1943, Stalin đã quay 180
độ trong chính sách tôn giáo của chế độ Cộng sản Liên Xô đối với Giáo hội Chính
thống Nga. Trong 10 năm trước khi Stalin qua đời, Giáo hội Chính thống Nga đã
được phục hoạt và hưởng được mọi tự do. Ai bảo Stalin là một người vô thần?
Hitler đã không ngừng “kêu tên Chúa” và tuyên xưng mình
là một tín hữu Kitô. Stalin đã được vinh danh như một vị ân nhân của Giáo hội Chính
thống dưới thời Liên Xô. Một đồ tể khét tiếng khác đã từng sát hại trên dưới 2
triệu đồng bào ruột thịt của mình là Pol Pot có lẽ cũng không hẳn là một người
vô thần. Theo tiến sĩ Ian Harris, giáo sư về tôn giáo học tại Đại học St. Martin,
Anh Quốc, trước khi lãnh đạo Khmer Đỏ, Pol Pot đã từng viết rằng “chế độ dân chủ
sẽ phục hồi nền luân lý của Phật Giáo, bởi vì Vị Lãnh Đạo Vĩ Đại của chúng ta
là Đức Phật là người đầu tiên đã dạy về dân chủ”. Cũng như Hitler và Stalin,
Pol Pot đã từng được nuôi dạy như một phật tử và ngay cả như một người công
giáo (4).
Nói theo ngôn ngữ nhà đạo của tôi, cả ba đồ tể khét tiếng
nhứt trong lịch sử nhân loại trên đây đều đã từng là những người “có đạo” hay
đã có lúc muốn tỏ ra mình là người “có đạo”.
Ngay từ thuở nhỏ, tôi đã được nhồi nhét vào đầu danh xưng
“có đạo” ấy. Nơi tôi sinh trưởng là một ngôi làng nhỏ thuộc miền Trung. Về tôn
giáo, một nửa dân số trong làng theo Công giáo, một nửa theo Phật giáo hay Đạo
ông bà. Từ lúc vừa có trí khôn, tôi đã phải học bài giáo lý vỡ lòng của Công
giáo là: “Hỏi: có mấy đàng lên Thiên Đàng? Thưa: chỉ có một đàng rất chính rất thật là Đạo thánh Đức
Chúa Trời”. Chỉ có một đàng, tức một Đạo rất chính rất thật là Đạo Công giáo,
cho nên người ngoài công giáo bị xem là
“kẻ ngoại”, chết thì phải “sa hỏa ngục”
mà thôi!
Cũng may, bài học làm người mà tôi phải học suốt đời lại
là bài học về khoan nhượng và tôn trọng đối với những người không có cùng niềm
tin tôn giáo với tôi. Ngoài ra, lịch sử lại còn mở mắt cho tôi thấy rằng có biết
bao nhiêu người “có đạo” lại là những kẻ vô đạo và có biết bao nhiêu hành động
được xem là “có đạo” lại là những hành động vô đạo. Không là vô đạo sao khi người
ta giương cao Thập Giá để cầm gươm đi xâm chiếm đất đai của các dân tộc khác,
chém giết những người khác tôn giáo, phá hủy văn hóa của họ và ngay cả bắt họ
làm nô lệ? Dĩ nhiên, đâu có riêng gì Công giáo của tôi, trong tôn giáo nào mà
chẳng có những kẻ vô đạo? Miệng hô to “Thượng Đế Vĩ Đại”, mình mang bom tự sát
để giết người vô tội vạ, đó chẳng phải là vô đạo sao? Để gọi là bảo vệ Đạo
Pháp, người ta kỳ thị, xua đuổi và ngay cả tàn sát những người không đồng tôn
giáo với mình, đó chẳng phải là vô đạo sao?
Khi suy nghĩ về “có đạo” và “vô đạo”, tôi cũng không thể
không liên tưởng đến chuyện đang xảy ra trong thời đại này. Bên Nga, có lẽ
không ai tỏ ra “có đạo” cho bằng Tổng thống Vladimir Putin. Trong các bài diễn
văn, ông luôn miệng đề cao Giáo hội Chính thống Nga, tự nhận mình là người bảo
vệ luân lý và những giá trị truyền thống. Nhưng thành tích vi phạm nhân quyền của
ông thì đã rõ như ban ngày! Bên Thổ Nhĩ Kỳ, mới đây, bất chấp sự phản đối của
Liên Hiệp Quốc và các nước Tây Phương,
lãnh tụ chuyên chế Recep Tayyip Erdogan đã tỏ ra rất “có đạo” khi ông biến
một di tích lịch sử của chung Kitô Giáo và Hồi Giáo là bảo tàng viện Hagia Sofia
thành một đền thờ Hồi Giáo.
Chuyện xảy ra bên Mỹ cách đây không lâu có lẽ cũng là một
hành động biểu dương sự “có đạo” không kém. Ai đó, sau khi dùng bạo lực để đàn
áp một đoàn người biểu tình ôn hòa, tiến đến trước một ngôi thánh đường chỉ để chụp
hình với quyển Kinh Thánh cầm trên tay để
chứng tỏ mình là người “có đạo” và nhứt
là luôn bảo vệ Giáo hội!
Suy nghĩ về “có đạo” và “vô đạo”, tôi lại nhớ đến lời dạy
của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho một nhà thần học Châu Mỹ La Tinh, khi được hỏi:
“Đạo nào là Đạo tốt nhứt?”, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng trả lời: “Bất cứ
điều gì làm cho bạn cảm thông hơn, nhạy cảm hơn, siêu thoát hơn, yêu thương
hơn, nhân đạo hơn, ân cần hơn, đạo đức hơn. Tôn giáo nào làm cho bạn được như
thế là tôn giáo tốt nhứt” (5)
Với tôi, Đạo nào cũng tốt cả, bởi lẽ tự trong cốt lõi, Đạo
nào cũng khuyên dạy con người ăn ngay ở lành. Do đó, nếu “Đạo” là đường thì “có
đạo” hay “đi đạo” không chỉ là gia nhập vào một tôn giáo có tổ chức, thực hành
các nghi lễ của tôn giáo , miệng ê a kinh kệ, tuần chay nào cũng có nước mắt...mà
thiết yếu chính là cố gắng sống cho phải đạo làm người.
2.
https://www.cbn.com/700club/features/churchhistory/godandhitler/
3.
https://www.history.com/news/ukrainian-famine-stalin
4.
https://stellarhousepublishing.com/were-stalin-hitler-and-pol-pot-atheists/
5.
https://www.staradvertiser.com/2010/07/03/religion/best-religion-is-the-one-that-makes-one-better/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét