Chu Thập
2/5/19
Có một thời, không biết có phải do Hội chứng Stockholm
không, tôi “yêu” cuồng nhiệt Pháp quốc,
cái đế quốc thực dân đã từng giẫm gót giày lên đất nước tôi và đày đọa dân tộc
tôi đến cả trăm năm. Có lẽ do niềm tin tôn giáo và văn hóa mà tôi đã hấp thụ được
từ các nhà truyền giáo người Pháp, tôi thấy cái gì của Pháp cũng nhứt cả: từ bánh
mì, phó mát (fromage), rượu vang, bơ sữa, xe hơi, nhà lầu...đến
thời trang, điện ảnh, văn chương, nghệ thuật, tư tưởng và ngôn ngữ...cái gì của
Pháp cũng đều số một hết!
Tôi say mê nước Pháp đến độ chỉ đeo đuổi một ước mơ: đến
Ba Lê rồi chết cũng được! Trong thời
gian chờ đợi trong trại tỵ nạn, mặc cho ai có bảo rằng đảng cầm quyền tại Pháp
hồi đầu thập niên 1980 là đảng “xã hội”, tức có bà con giây mơ rễ má với cộng
hòa “xã hội chủ nghĩa” Việt Nam mà mình đã trốn chạy khỏi, tôi vẫn quyết chí
đeo đuổi giấc mơ của mình là được trở thành công dân của “mẫu quốc”.
Tôi đến Pháp vào cuối tháng Mười năm 1982. Tuy vẫn còn sống
trong một trại tạm trú ở ngoại ô Ba Lê, tôi thấy mình cũng đâu có thua gì ông
Phán thời Pháp thuộc: “tối (cũng) sâm banh, sáng (cũng) sữa bò” như ai! Sau vài ngày ăn uống ngủ nghê để lấy lại sức, tôi
mới mon men tìm đường lên “Kinh thành Ánh sáng”. Đường trên lỗ miệng. Vả lại, hệ
thống hỏa xa và xe điện ngầm ( Metro) ở Ba Lê thật thuận tiện. Chỉ cần
trình độ “thoát nạn mù chữ” như tôi cũng đủ để khỏi bị lạc đường.
Bước ra khỏi xe điện ngầm, tôi bước đi những bước thật chậm
rãi dọc theo bờ sông Seine, như người đang mơ một giấc mơ đẹp mà không muốn bị
ai đánh thức. Nhưng điểm đến của chuyến thăm thú “Kinh thành Ánh sáng” của tôi
dĩ nhiên là Nhà Thờ Đức Bà (Notre Dame de Paris). Là một người công
giáo, tôi xem đây là một địa điểm hành hương. Với niềm tin tôn giáo được tiếp
nhận và nhào nặn từ các nhà truyền giáo Pháp, muốn hay không tôi thấy mình đã bị
ràng buộc vào cả một truyền thống “đạo” lâu đời của người Pháp. Với tôi, vào
Nhà Thờ Đức Bà là đi lại cuộc hành trình tôn giáo của cả dân tộc Pháp từ gần
hai ngàn năm qua!
Nhưng ở cái nước được xem là “Trưởng Nữ của Giáo Hội”
này, mặc dù kể từ năm 1905 đã có sự phân biệt rạch ròi giữa Nhà Thờ và Nhà Nước,
niềm tin tôn giáo và văn hóa vẫn tiếp tục quyện chặt lấy nhau. Nhà Thờ Đức Bà là biểu trưng của sự phân
biệt ấy. Di tích lịch sử đã có từ hơn 800 năm này không chỉ là một nơi thờ phượng
hay địa điểm hành hương, mà cũng là một điểm du lịch thu hút mỗi năm trên cả chục
triệu du khách. Không cần phải có niềm tin tôn giáo để bước vào nơi tôn nghiêm
này. Tôi đã hòa mình vào dòng người qua lại trong đó không chỉ như một người
hành hương, mà còn như khách thưởng lãm một công trình nghệ thuật.
Với tôi là một “con dân” thuộc địa của Pháp, có lẽ văn
hào Victor Hugo (1802-1885) là người đã có công lớn nhứt để quảng bá cho công
trình nghệ thuật này. Thật vậy, tôi biết đến Nhà Thờ Đức Bà qua các tác phẩm của
đại văn hào này và dĩ nhiên tác phẩm nổi tiếng nhứt của ông về ngôi thánh đường
này chính là “Nhà Thờ Đức Bà Ba Lê” (Notre Dame de Paris).
Bước vào ngôi thánh đường cổ kính này là đi lại từng bước
của chính văn hào Victor Hugo. Phải nhiều lần chiêm ngắm lối kiến trúc cổ của
ngôi thánh đường này ông mới tìm được nguồn cảm hứng để viết một cuốn tiểu thuyết
có tính chất lịch sử với bối cảnh là kinh thành Ba Lê thời Trung Cổ.
Văn hào Victor Hugo đã đưa tôi đi một vòng trong nhà thờ để rồi cuối cùng dừng lại ở một địa điểm được
ông đưa vào vị trí trang trọng và quan trọng nhứt của nơi linh thiêng là gác
chuông nhà thờ. Tôi đứng nhìn lên gác chuông thật lâu để sống lại những ngày khốn
khổ của nhân vật chính của quyển tiểu thuyết của văn hào Victor Hugo là
Quasimodo, được tài tử Mỹ Anthony Quinn hồi sinh trong cuốn phim nổi tiếng có tựa đề “The Hunchbach of Notre Dame” được đạo
diễn Pháp Jean Delannoy thực hiện và cho trình chiếu năm 1956. Lưng đã còng,
gương mặt lại dị dạng, Quasimodo được người Việt Nam gọi một cách khinh bỉ là “Thằng gù Nhà thờ Đức Bà”. Kỳ thực, đàng
sau những dị tật bẩm sinh bị xã hội khinh bỉ và ruồng rẫy ấy, người kéo chuông
của Nhà thờ Đức Bà là một con người có tâm hồn cao thượng luôn biết xả thân hy sinh
vì người khác. Lẽ ra phải gọi ông là một người hùng hơn là một “thằng gù”!
Tôi chiêm ngắm vẻ đẹp thẩm mỹ của ngôi thánh đường Gothic
là Nhà Thờ Đức Bà, nhưng văn hào Victor Hugo dường như muốn lôi kéo tôi đến một
vẻ đẹp khác đáng được tìm kiếm và trân trọng hơn: đó là vẻ đẹp của tâm hồn con
người. Đó là vẻ đẹp mà dao kéo thẩm mỹ và mỹ phẩm không thể tạo ra được. Đó là
vẻ đẹp ẩn hiện đàng sau những bất toàn và ngay cả những dị tật thể hình mà con
người cho là xấu xa gớm ghiếc nhứt. Đó là vẻ đẹp mà văn hào Victor Hugo luôn
tìm kiếm và đề cao khi ông nói: “Có một
quang cảnh vĩ đại hơn đại dương, đó là bầu trời. Có một quang cảnh vĩ đại hơn bầu
trời, đó là nội tâm con người”.
Từ ngàn xưa, dường như người Nhật đã muốn nhấn mạnh đến vẻ
đẹp ấy qua điều thường được gọi là “Triết lý Wabi Sabi”. “ Wabi Sabi là một triết
lý thẩm mỹ cổ xưa bắt nguồn từ Thiền Tông, đặc biệt là trà đạo, một nghi lễ thuần
khiết và đơn giản trong đó các bậc thày đánh giá cao cái chén được làm thủ công
và hình dạng bất thường, với men không đồng đều, vết nứt và vẻ đẹp hư hỏng
trong sự không hoàn hảo có chủ ý của người tạo ra cái chén” ( x. Mai Thanh Truyết, Wabi Sabi - Triết lý của sự bất toàn https://www.tvvn.org/wabi-sabi-triet-ly-cua-su-bat-toan-mai-thanh-truyet/)
Đứng nhìn lên gác chuông Nhà Thờ Đức Bà, nghe văng vẳng
tiếng chuông được kéo lên từ bàn tay của người gù Quasimodo, tôi cũng nghe vọng
lại tiếng hát của ca sĩ Leonard Cohen (1934-2016) “Hãy rung lên những tiếng
chuông khi chúng còn có thể rung. Hãy
quên đi của lễ dâng hoàn hảo của bạn. Trong mọi thứ đều có vết rạn nứt. Đó là
cách thế mà ánh sáng len lỏi vào” (Ring the bells thay still can ring. Forget
your perfect offering. There’s a crack in everything. That’s how the light gets
in).
Nhà Thờ Đức Bà đã trải qua một trận hỏa hoạn chưa từng thấy.
Nhưng dường như xuyên qua ngọn lửa cao ngút ấy, người gù Quasimodo vẫn tiếp tục
kéo chuông để đưa ra một sứ điệp: vẫn có ánh sáng ở cuối đường hầm! Ông nhắc nhở
tôi phải luôn tỉnh táo và lạc quan để tìm thấy vẻ đẹp thâm sâu trong nội tâm của
mỗi người, nhứt là những người khốn khổ thường bị xã hội đẩy ra bên lề. Có lẽ
ông cũng muốn lập lại một câu đáng ghi nhớ nhứt trong cuốn phim “Tiếng âm nhạc”
(The sound of music): “Khi Chúa đóng một cánh cửa chính, thì ở một nơi nào đó Ngài
mở ra một cánh cửa sổ” (When the Lord closes a door, somewhere He opens a
window).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét