Thứ Tư, 11 tháng 1, 2017

Tôi tập lắng nghe



Chu Thập
11.06.13

Thuở còn sống với cha mẹ, tôi vẫn cứ thắc mắc tại sao cứ nửa đêm hay về sáng, ông già tôi thường thức dậy pha trà uống rồi mới đi ngủ lại. Bây giờ khi bước vào tuổi của ông thì tôi mới hiểu tại sao. Cứ mồi lần thức dậy đi uống nước tôi lại nhớ cha tôi. Và âm thanh tôi vẫn còn nghe rõ mồn một là tiếng nước trà mà cha tôi rót vào tách. Như một nghi thức, cha tôi lấy nước nóng từ bình thủy, pha vào ấm trà, rồi đưa cao ấm lên để rót vào tách. Khi bốn bề đều yên lặng, tiếng nước trà từ trên cao đổ vào tách tạo ra một âm thanh mà tôi nghĩ chỉ có cha tôi mới hiểu hết ý nghĩa. Có người bảo đó là thói quen đặc trưng của người miền Trung. Cứ nhìn vào người nào đưa cao cái ấm lên để rót nước vào tách là biết ngay đó là dân miền Trung.
Dạo đó, tuy đã trên 6 bó rưỡi, cha tôi vẫn còn là một nông dân ngày ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Đêm nằm ngủ, có lúc ông thức dậy nhìn trời. Nhà nông nào cũng có lúc mong cho trời nắng, có ngày chờ một cơn mưa. Gặp lúc lúa thần nông vừa được viện IRI (viện nghiên cứu lúa do Liên Hiệp Quốc thành lập) tại Phi Luật Tân tạo giống và du nhập vào Việt Nam, rầy (một loại thiêu thân) không biết từ đâu sinh ra hằng hà sa số. Chúng lờn với các thứ thuốc trừ sâu. Chỉ còn cách lấy bánh xe hơi cũ đốt lên sáng cả một cánh đồng, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu. Những lúc như thế, tôi chỉ còn nghe cha tôi thở dài. Giữa đêm thức giấc uống trà để gọi là dỗ lại giấc ngủ, có lẽ cha tôi muốn gởi gấm vào tiếng nước trà rót vào tách tất cả những hy vọng, niềm mơ ước cũng như bao nỗi lo của một nhà nông.
Tuy nay đã bước vào tuổi của cha tôi, tôi lại không có những trăn trở đến độ phải thức dậy uống trà như cha tôi. Nhưng ngủ trọn giấc là điều mà tôi biết mình sẽ chẳng còn có được nữa. Sống trong một khung cảnh yên ắng đến độ ban đêm hầu như không còn nghe bất cứ một thứ tiếng động nào, tai tôi lại trở nên thính hơn bao giờ hết. Hai ba giờ sáng, tôi nghe được tiếng xe tải đang rướn mình trên xa lộ F3 cách nhà tôi có lẽ không quá một cây số đường chim bay. Âm thanh nghe không ồn ào, gây hấn hay bực dọc, mà trái lại như làm toát ra một chút nhẹ nhõm, phấn khởi của những tài xế phải suốt một đêm nhọc nhằn trên con đường dài từ Queensland về Sydney. Nghe tiếng máy nổ đều đều của những chiếc xe tải, tôi tưởng tượng ra niềm vui của những người sắp trút bỏ được gánh nặng để về với gia đình hay tìm được giấc ngủ sau một đêm mỏi mệt vì phải tập trung vào tay lái để không gây ra tai nạn.
Trời chưa sáng, nhưng những con chim “kookaburra” đã cất tiếng chào bình minh inh ỏi cả núi rừng. Giống chim này bình thường im như thóc, mỗi con đứng một góc cả buổi như một triết gia chẳng biết đang ngẫm nghĩ chuyện gì. Nhưng cứ gần sáng thì chúng lại ồn ào hơn ai hết. Lúc mới về ở gần rừng, tôi hơi bực bội vì bị đánh thức vào lúc mình chưa muốn dậy. Nhưng bây giờ nghe mãi tôi lại đâm ra ghiền cái bản hợp ca hỗn loạn ấy. Cứ tưởng tượng núi rừng mà không có thứ âm thanh ấy thì buồn biết chừng nào!
Chỉ có mấy chị gà mái của tôi là biết điều. Phải đợi có một chút ánh sáng luồn vào chuồng, các chị mới thức giấc và bắt đầu rên rỉ. Nghe mãi, tôi hiểu được lúc nào các chị muốn đòi ăn, lúc nào các chị bày tỏ niềm vui vì được ăn quà vặt, lúc nào các chị gắt gỏng và dĩ nhiên lúc nào các chị muốn chửi nhau vì “mắc đẻ” mà không tìm được ổ.
Hiểu được tiếng gà, thưởng thức được âm thanh của núi rừng, nghe được nỗi niềm từ động cơ máy nổ, tôi cũng bắt đầu hiểu được tiếng nói của chính cơ thể mình. Có những đêm cái bụng của tôi làm reo, phản đối vì trong ngày tôi đã ăn những thứ mà lẽ ra tôi phải kiêng. Có lúc thì ngón chân cái bên phải của tôi báo động. Thì ra, vui với bạn bè, tôi đã rước vào người một lượng rượu vang đỏ vượt quá mức cho phép hoặc một miếng “bít tết” quá cỡ. Đó là những thứ “xúc tác” giúp cho bệnh “gút” (gout) vùng dậy. Nhưng đáng sợ nhất là những lúc tim tôi đập loạn xà ngầu, báo hiệu một điều mà tôi chẳng đoán được là gì, nhưng ít ra tôi cũng đón nhận đó như một thông tin về một triệu chứng đáng lo ngại. Quả thật, cơ thể của tôi lúc nào cũng đòi quyền được phát biểu. “Thương người như thể thương thân” mà không chịu lắng nghe, chăm sóc, yêu thương cái thân này quả là một thiếu sót đáng tội. Nói gì đến tiếng nói sâu thẳm từ lương tâm. Có những đêm thức giấc thấy vui vì mình đã sống tử tế hơn hay đã làm được một vài nghĩa cử nhỏ với người xung quanh. Nhưng cũng chẳng thiếu những lúc cứ trằn trọc hay bị “cắn rứt” vì đã không làm được một việc thiện lẽ ra phải làm hay đã vô tình hay hữu ý xúc phạm đến một ai đó.
Tiếng nói của lương tâm ấy không chỉ thúc đẩy tôi phải luôn biết nhìn lại bản thân, mà cũng mời gọi tôi lắng nghe người khác nhiều hơn. Dĩ nhiên, nghe với thái độ nhẫn nhục và cảm thông.
Tôi chưa bị trầm cảm hay mắc phải một chứng bệnh tâm lý nào trầm trọng đến độ phải đi gặp một cố vấn tâm lý. Nhưng tôi nghĩ rằng bất cứ ai cũng có thể trở thành một cố vấn tâm lý cho người khác, bởi vì ai cũng có nhu cầu cần trút bầu tâm sự và cần có một ai đó biết lắng nghe mình. Cái xóm nhỏ của tôi có nhiều người có nhu cầu ấy.
Tôi nghĩ đến trước tiên cái bà gốc Hồng Kông ở cách nhà tôi hai căn. Tôi đã hầu như thuộc lòng “câu chuyện” của bà. Có lẽ biết tôi là người Á Đông dễ cảm thông chăng, cho nên cứ hễ gặp tôi là bà chận lại cho bằng được và tuôn ra đủ chuyện trên đời này. Thường thì bà than phiền về người con trai đang sống với bà. Người thanh niên mang hai dòng máu này quả thật chẳng giống ai. Anh hiện đang dọn tiến sĩ về vật lý học tại một đại học nào đó trên Sydney. Từ nhà ra ga xe lửa đi bộ phải mất ít nhất nửa tiếng đồng hồ. Vậy mà anh thà đi bộ hơn là học lái xe để tiết kiệm được thì giờ đi lại. Hơn nữa, gặp lúc người mẹ cần đi đâu anh có thể đỡ đần phần nào. Nhưng anh dứt khoát không chịu tự tay xử dụng cái phương tiện đi lại tối thiểu ở Úc Đại Lợi này. Người mẹ than phiền về chuyện này đã đành. Bà cũng buồn vì anh ít khi động đến ngón tay để giúp đỡ bà trong việc nhà.
Ngoài người con trai khác thường này, bà ta cũng rất bực mình vì chuyện người đưa thư cứ tỉnh bơ lái chiếc xe hai bánh cán lên thảm cỏ mà bà cưng hơn bất cứ thứ gì trên đời. Chưa hết, người “đồng hương Á đông” duy nhứt trên con đường cụt này là tôi còn phải nghe bà kể lể về thái độ kỳ thị chủng tộc của gia đình người hàng xóm sát vách với bà hay chuyện một bà Úc khác cứ thản nhiên thả chó “ị” những bãi to tổ bố trên thảm cỏ của bà.
Không biết tôi có “thiên hướng” làm cố vấn tâm lý không mà cách đây mấy hôm, trong lúc chạy bộ quanh bờ hồ gần nhà, bà Ba Lan ở cách nhà tôi vài căn cũng chận tôi lại để tâm sự. Thôi thì bà kể đủ điều về cái bà Úc láng giềng của bà. Bà nói rằng bà đã đến cư ngụ trong cái xóm này đã 27 năm. Vậy mà cái bà Úc mới dọn về có 2 năm lại kiếm chuyện với bà. Chuyện có gì đâu. Bà Ba Lan đã xin được phép của hội đồng thị xã để che thêm một cái chái phía sau nhà để mỗi tuần tổ chức họp mặt gia đình. Dĩ nhiên, họp mặt gia đình thì làm sao tránh khỏi tiếng ồn. Cho nên cái bà hàng xóm của bà Ba Lan mới nói xa nói gần đủ điều. Hai bên cứ kèn cựa nhau. Tôi chẳng biết lỗi phải về ai. Nhưng nghe và “chịu trận” để nghe thì tôi biết mình có thừa kiên nhẫn. Tôi cũng nghĩ thầm: mình không được huấn luyện để làm cố vấn tâm lý, nhưng được dịp lắng nghe người ta tâm sự thì không những không mất mát mà lại giúp mình biết cảm thông với người khác hơn.
Tôi thích cái ông hàng xóm mới dọn về được vài tháng nay. Có lẽ vì đang là giám đốc hành chánh của một bệnh viện ở địa phương, nghĩa là người thường xuyên phải giải quyết những vấn đề về quan hệ giữa người với người cho nên lúc nào ông cũng thích trao đổi, lắng nghe và hầu như lúc nào cũng kết thúc câu chuyện bằng một câu “life is good” (đời vẫn đẹp). Tôi muốn học cái thái độ lạc quan ấy để biết lắng nghe và cảm thông với người khác nhiều hơn.
Cứ tưởng lắng nghe là chuyện ai cũng làm được và làm được mà chẳng cần học hỏi hay trau dồi. Thật ra, lắng nghe là cả một nghệ thuật. Thời thanh niên, chương về “lắng nghe” trong cuốn sách gối đầu giường là “Đắc nhân tâm” của ông Dale Carnegie, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, đã được tôi đem ra nghiền ngẫm mỗi ngày. Vậy mà cho tới giờ này, khi xảy ra chuyện, có khi mình lại quên áp dụng bài học sơ đẳng mà ông Carnegie đã đề ra: người biết lắng nghe là người nói chuyện hay nhứt!
Nhìn vào thời đại thông tin toàn cầu này, tôi thấy ái ngại cho giới trẻ ngày nay. Cái thế hệ mà nhà bác học vĩ đại nhứt của thế kỷ 20 là Albert Einstein đã từng tiên báo sẽ đến quả là một thế hệ “ngu ngốc”. Với những phương tiện truyền thông mỗi lúc một tối tân và tinh vi, họ lại co cụm trong bản thân hơn là lắng nghe người khác. Họ thích nói về mình hơn là nghe người khác nói. Họ thích nói với mình hơn là nói với người khác.
Trong cuốn sách có tựa đề “Absolute Happiness” (Hạnh phúc tuyệt đối), tác giả Michael Domeyko Rowland có kể lại một bữa cơm mà ông đã chia sẻ với một nhóm người mà ông gọi là những “Narcisse” của thời đại. Có mặt trong bữa cơm là một người vừa làm một chuyến đi Chile, Châu Mỹ La Tinh về. Ông ngỏ ý xin người này kể lại chuyến đi. Nhưng cứ hễ người này vừa mở miệng thì đã có một bà giành “micro” để thao thao đủ chuyện về Chile. Tác giả kể lại rằng có ít nhứt ba bà “nhiều chuyện” như thế. Rốt cục, tác giả bảo rằng ông chẳng nghe được bất cứ một câu chuyện nào từ miệng của người vừa mới thực hiện một chuyến du lịch tại Chile.
Theo thần thoại Hy Lạp, Narcisse là một chàng thanh niên có nhân dáng đẹp. Ngày nọ, anh ra đứng bên một bờ ao. Nhìn xuống mặt nước im như tờ, anh thấy thân hình đẹp của mình hiện ra như trong gương. Kể từ đó, chàng ta say mê chính mình. Ngày ngày anh cứ ra đứng bên bờ hồ để chiêm ngắm dung nhan của mình đến độ quên ăn mất ngủ và qua đời. Từ nơi anh chết đã mọc lên một loài hoa đẹp được đặt tên là Narcisse (Thủy Tiên). Dĩ nhiên, từ đó, người ta thường mượn hình ảnh của nhân vật thần thoại này để nói về những người chỉ biết say mê và yêu mình. Người mắc chứng “Narcisse” thường chỉ biết có mình. Họ tự giam mình trong tổ kén được chính họ tự dệt lên. Chính vì co cụm trong bản thân và không muốn ra khỏi chính mình, cho nên người mắc chứng “Narcisse” sẽ không muốn lắng nghe người khác.
Thật ra, ít hay nhiều, ở những mức độ khác nhau, tôi nghĩ có lẽ ai cũng mắc chứng bệnh này. Chỉ có thái độ lắng nghe với cảm thông mới có thể giúp tôi ra khỏi bản thân. Mà kỳ thực, nghịch lý lớn nhứt trong cuộc đời mà lẽ thường luôn mách bảo tôi là: càng cố gắng ra quên mình để đến với người khác và lắng nghe họ nhiều hơn, tôi lại càng tìm lại được chính mình.
Và hầu như điều gì cùng tùy vào cảm nhận và cái nhìn của chính mình. Từ chỗ cố gắng lắng nghe vì lịch sự đến lắng nghe vì thương cảm tôi thấy mình không còn thấy việc lắng nghe những chuyện “một ngày như mọi ngày”, chẳng đi đến đâu của người khác như cực hình nữa. Tôi nhận thấy rằng, cũng như thời tiết, câu chuyện của họ cũng có những tình tiết nho nhỏ đủ để nói lên những tâm tư sâu kín cần được lắng nghe và chia sẻ. Rõ ràng không mấy ai cần một giải đáp nhưng chắc chắn ai cũng cần có một cái tai biết nghe.
Và tôi cũng không ngoại lệ.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét