Chu Văn
Tôi trốn khỏi Việt Nam tính đến nay cũng đã hơn 40 năm.
Mãi đến gần 30 năm sau, tôi mới mon men về thăm nhà. Nói là thăm nhà, nhưng vì
“sợ” đủ thứ cho nên tôi không dám công khai gặp gỡ người thân mà chỉ lang thang
đi thăm thú những nơi mà trước năm 1975, vì chiến tranh tôi chưa hề được đặt
chân tới. Chỉ mới gần đây thôi tôi mới bạo dạn hơn để về thăm làng cũ và gặp lại
người thân trong gia đình cũng như một số người quen trong làng.
Tôi chỉ còn một bà chị già ở Việt Nam. Sau bao nhiêu năm
xa cách, gặp lại chị, thấy chị vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn, tôi mừng. Riêng
các cháu, con của các anh chị và cô em, tôi đếm không xuể. Có những đứa, khi
tôi ra đi, chỉ mới tập tễnh cắp sách đến trường và rất nhiều đứa chưa sinh ra,
vậy mà nay cũng đã làm ông làm bà. Tôi vui vì thấy ai cũng có nhà có cửa, có cuộc
sống ổn định. Có người có cả xe hơi. Và cũng có người không hiểu làm cách nào
cũng ngoi lên làm “đại gia” trong làng!
Thăm người thân trong gia đình, tôi cũng rảo một vòng để
thăm và hỏi thăm về những người bạn thời tuổi thơ và niên thiếu. Chỉ còn lại
năm ba người nay đã lên hàng tiên chỉ trong làng. Phần lớn, tôi chỉ còn biết mượn
lời thi sĩ Vũ Đình Liên để ngậm ngùi tưởng nhớ: “Những người muôn năm cũ. Hồn ở
đâu bây giờ”.
Nhớ những người bạn thời muôn năm cũ, tôi cũng ngẩn ngơ đứng
nhìn hai con sông của thời tuổi thơ. Sông Cái chạy dọc theo làng và đổ ra biển
Nha Trang. Còn Sông Con thì uốn khúc xuyên qua làng để chảy vào Sông Cái. Dòng
nước trong thấy đáy của hai con sông này là nơi mà con rái con là tôi đã bì bõm
tập bơi, tập câu cá và học đủ thứ “kỹ năng” để sống còn trong đời sống thôn dã.
Tuổi thơ đẹp như chuyện thần tiên của tôi đã gắn liền với 2 con sông đó. Vậy mà
nay , đứng nhìn 2 con sông, tôi cũng muốn thốt lên: “hồn ở đâu bây giờ”. Quả thật,
hai con sông thân yêu của tôi cũng đã chết: người ta đã hút lấy hết xương tủy của
hai con sông là sạn và cát khiến chúng chỉ còn là những dòng nước đục ngầu, dơ
bẩn. Chẳng có gì buồn bã cho bằng không thấy bóng dáng của bất kỳ một đứa trẻ
nào trên 2 con sông đó nữa! Không biết “đất nước” Việt Nam có đang chết không,
nhưng rõ ràng là “nước” của hai con sông của làng tôi đã chết!
Có lẽ tôi thuộc “mạng thủy” cho nên cứ thấy sông nước và
biển là muốn “nhào xuống”. Tôi được may
mắn là lớn lên, làm việc và sống nhiều năm ở Nha Trang trước khi trốn khỏi Việt
Nam. Thành ra, trong chuyến về thăm quê cũ, tôi dành nhiều thời gian để đi lại
những nơi quen thuộc của thành phố biển này. Trong số những nơi quen thuộc ấy,
tôi đã dừng chân rất lâu ở Hòn Chồng, nằm ở phía Bắc Nha Trang. Một lần nữa, tôi lại ngẩn
ngơ đứng nhìn những đổi thay quá sức tưởng tượng của tôi. Các cao ốc làm tôi
choáng ngợp đã đành, mà lạ quá, bờ biển đẹp và dòng nước trong xanh lại cũng
làm tôi cảm thấy lạc lõng. Sở dĩ cái cảm giác ấy xâm chiếm tôi là bởi cái bãi
biển thân yêu ngày xưa của tôi ngày nay tràn ngập một đám người “mắt xanh, mũi
lõ, tóc vàng sợi nhỏ” mà không ai bảo ai, tất cả đều biết đó là người Nga. Dân
địa phương cho biết: trước kia, du khách đến bãi biển Nha Trang hầu hết là người
Tàu từ Trung Quốc. Nay, vì Covid 19, chính sách phong tỏa của Trung Quốc đã giới
hạn sự đi lại của người dân, số du khách từ quốc gia cộng sản này đến Nha Trang
có phần giới hạn. Bù lại, trên bãi biển, tôi thấy người Nga còn đông hơn cả người
Việt Nam. Một ông bạn già của tôi giải thích rằng trước kia bãi biển Nha Trang
là điểm đến của rất đông du khách từ các nước Tây Phương, nay hễ cứ thấy người
Nga là họ bỏ đi nơi khác.
Những người Nga mà tôi thấy trên bãi biển Hòn Chồng hầu hết
là những cặp vợ chồng trẻ có một hai đứa con còn nhỏ. Không biết có phải do bất
đồng ngôn ngữ không, phần lớn đều tỏ ra lạnh lùng, xa lạ. Thời “Mỹ Ngụy”, trẻ
con Việt Nam thường chạy theo sau đuôi những người lính Mỹ để “hello”, “ok
salem”, nay tôi chẳng thấy có đứa trẻ nào tỏ ra thân thiện với người Nga. Tôi
không hiểu tại sao người Nga tỏ ra lạnh lùng, mà người Việt cũng chẳng niềm nở
hay thân thiện đối với họ.
Phản ứng đầu tiên của tôi trước cảnh người Nga tràn ngập
bãi biển thân yêu của tôi là phẫn nộ. Không hiểu sao với tôi Nga lúc nào
cũng đồng nghĩa với “ cộng sản”. Nhưng
theo dõi tin tức về thắng cảnh du lịch nổi tiếng của Nam Dương là Bali, tôi lại
thấy cảm thông hơn với những người Nga đang có mặt trên bãi biển Nha Trang của
tôi. Bali chưa bao giờ có đông du khách Nga cho bằng ngày nay. Họ tìm đến Bali
vì họ trốn chạy cuộc chiến tranh xâm lược tại Ukraine của nhà độc tài Vladimir
Putin. Dù chỉ tạm bợ, nhưng họ chiếm lấy công ăn việc làm của người Nam Dương cho
nên bị người dân địa phương tẩy chay(1). Họ có mặt tại Nha Trang vì họ cũng đã
bỏ phiếu bằng chân như tôi đối với chế độ độc tài của Putin. Tôi không biết họ
làm gì để sinh sống. Xuất phát từ một nước Nga đang bị phá sản vì tham vọng đế
quốc của nga hoàng Putin, những cặp vợ chồng trẻ bỏ nước ra đi chắc chắn không
phải là những người giàu có. Chắc họ cũng phải bương chải để độ nhựt qua ngày.
Tôi đã từng chứng kiến cảnh một người đàn ông Nga đứng buôn thúng bán bưng giữa
một ngã tư gần bờ biển.
Sự hiện diện của đông đảo người Nga trên bãi biển Nha
Trang không thể không làm tôi liên tưởng đến một người Nga tên là Lenin hiện
đang được chế độ cộng sản Việt Nam sùng bái như một ông thánh sống. Cái chủ
nghĩa do ông khai sáng đã chết ngay trên quê hương của ông và đã bị Nghị Viện
Âu Châu quăng vào sọt rác, nhưng vẫn tiếp tục được tuyên xưng như một tín điều ở
Việt Nam. Tượng của ông đã bị giựt sập tại hầu hết các nơi trên thế giới, nhưng
vẫn đứng ngạo nghể giữa thủ đô của Việt Nam. Dĩ nhiên, bên cạnh ông lúc nào
cũng có người học trò trung kiên của ông là Hồ Chí Minh. Dưới bóng của Lenin,
tượng đài của Hồ Chí Minh vẫn chiếu sáng trên mọi ngõ ngách của đất nước Việt Nam. Bóng
của ông phủ lấp mọi hang cùng ngõ hẻm của đất nước. Ngay cả trong một số chùa chiền,
ông cũng chễm chệ ngồi ngang hàng hay
ngay cả trên Đức Phật.
Sở dĩ sự hiện diện của người Nga tại thành phố biển Nha
Trang của tôi làm tôi liên tưởng đến Lenin để rồi không thoát khỏi nỗi ám ảnh của
người đã và đang được Việt Nam tôn thờ như một vị thánh sống là bởi vì trong những
ngày về thăm quê hương, ở đâu tôi cũng cảm thấy như bị ngộp thở vì thứ chủ
nghĩa đồi bại mà người đó đã cóp nhặt và áp đặt lên đất nước tôi. Cũng như nhà
thơ Trần Dần của thời nhân văn giai phẩm, ở đâu tôi cũng “chỉ thấy mưa sa trên
màu cờ đỏ”, đi đâu tôi cũng thấy đất nước bị nhuộm bằng màu máu của “búa liềm”
và “cờ đỏ sao vàng”. Dưới bóng của Hồ Chí Minh, chế độ cộng sản được ông nhào nặn
và áp đặt lên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, như kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, người
sáng lập và lãnh đạo Phong trào “Tập hợp Dân chủ Đa Nguyên” thường nói, người cộng
sản hiện diện tại Miền Nam cho đến nay vẫn là một “lực lượng chiếm đóng” hơn là
một chế độ dân chủ. Dưới là cờ “búa liềm” và “cờ đỏ sao vàng” là chiếc thòng lọng
“331” được tròng vào cổ bất cứ ai “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền
thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.” Việc mới đây kỹ sư Nguyễn Lân Thắng bị chiếc thòng lọng “331” siết cổ
là một điển hình. Hành vi chống phá chế độ của ông có thể chỉ là một cái cớ. Tội
tày đình của ông chính là “xúc phạm” Bác Hồ, “vị cha già kính yêu của dân tộc”.
Lạ thật, nhiều nhà trí thức hay bất đồng chính kiến trong
nước hiện nay, dù có phê phán hay lên án chủ nghĩa cộng sản và chế độ độc tài ,
vẫn một mực tôn vinh Hồ Chí Minh. Ngay cả một nhà văn nổi tiếng là bà Dương Thu
Hương, người vừa mới được trao tặng giải thưởng cao quý của Pháp là Cino del
Luca, cho dù, nói theo ngôn ngữ của bà, muốn “ỉa” vào mặt giới lãnh đạo cộng sản
hiện nay, vẫn cứ tôn sùng Hồ Chí Minh. Trong một bài “suy ngẫm về đất nước và Hồ
Chí Minh” được đăng trên đài BBC ngày 1 tháng Ba năm 2009, bà đã tuyên xưng: “Tôi
thấy ông thật sự là một người vĩ đại...Nếu dân tộc Việt Nam đủ trưởng thành để
nhận thức được điều đó thì họ sẽ hãnh diện vì đã có ông, Hồ Chí Minh” (2). Tôi
không biết bà nghĩ gì về chiến dịch Cải cách Ruộng đất, những cuộc truy lùng thời
Nhân văn Giai phẩm và nhứt là cuộc chiến “thần thánh” do chính ông phát động
khiến cho hàng chục triệu người dân Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc bị mang ra
sát tế trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa. Nếu “dân tộc Việt Nam đủ trưởng thành để
nhận thức được điều đó”, nghĩa là công khai nhìn nhận con người dối trá và độc
ác của Hồ Chí Minh, cũng như các nước trong khối Đông Âu đã từng làm đối với
Lenin và các lãnh tụ cộng sản khác hồi cuối năm 1989, thì mới mong Việt Nam thực sự có dân chủ.
Với tôi, sau 48 năm xâm chiếm Miền Nam, những người cộng sản cai trị đất nước dưới ngọn
đuốc dẫn đường của Hồ Chí Minh chẳng khác nào các cai tù. Cho đến nay, cả nước
vẫn tiếp tục là một nhà tù. Tất cả mọi cánh cửa lớn đều khép kín. Từ ngày gọi
là mở cửa và đổi mới, một vài cánh cửa sổ được mở ra để dân chúng được hít thở.
Bị giam dưới tầng đáy địa ngục, được hít thở một chút không khí từ bên ngoài,
đã có lúc rất nhiều người Việt Nam tự nhận mình là một trong những dân tộc “hạnh
phúc” nhứt trên thế giới. Khi một chút không khí từ bên ngoài thổi vào một vài
cánh cửa sổ của nhà tù, nó cũng mang vào không biết bao nhiêu luồng khí độc.
Tôi cảm nhận được điều đó khi trao đổi với các cháu của tôi. Một cô cháu suốt
ngày ôm cái điện thoại cầm tay để tỏ ra “ngang tầm thời đại” đã nguyền rủa Tổng thống Joe Biden
không tiếc lời. Tôi hỏi tại sao, cháu tôi nói: vì ông ta “Dân Chủ”. Một người
cháu khác ở Đà Lạt khoe không bao giờ đi chích ngừa Covid và cho biết đã thủ sẵn
trong nhà rất nhiều thuốc ký ninh. Cháu tôi cho biết lý do: cựu Tổng thống
Trump đã bị nhiễm Covid, ông đã được chữa lành chỉ nhờ uống thuốc chống sốt
rét!
Gần đây, trong những lần gặp gỡ và trao đổi với người
thân và bạn bè, tôi “sợ” tình cảm bị sứt
mẻ đến nỗi không bao giờ dám chủ động nhắc đến tên ông Trump. Vậy mà họ cứ tự động
đưa ông vào câu chuyện. Hầu hết là khen ngợi và ngay cả tôn vinh ông như rất
nhiều người Việt Nam ở Mỹ. Một người em họ của bà xã tôi, hiện đang làm chủ một
công ty trang trí nội thất có lẽ lớn nhứt ở Vũng Tàu, mặc dù không tán thành tư
cách của ông Trump, vẫn ca tụng ông về nghệ thuật “kinh bang tế thế” của ông.
Tôi không ngạc nhiên về sự sùng bái mà nhiều người Việt Nam trong nước dành cho
ông Trump. Ở thành phố Bảo Lộc, một buổi chiều không biết làm gì, tôi chui vào
một nhà sách được xem là lớn nhứt trong thành phố. Dĩ nhiên, cơ sở văn hóa nào ở
Việt Nam cũng đều nằm dưới sự giám sát chặt chẽ của nhà nước cộng sản. Đập vào
mắt tôi nhiều nhứt là hầu như tác phẩm nào của ông Trump cũng đều được dịch
sang tiếng Việt và được trưng bày ở nơi dễ bắt mắt nhứt. Trong số những cuốn
sách của ông trùm bất động sản này, có cả những cuốn viết về Trường Đại Học
Trump (về nghệ thuật tiếp thị 101, làm thế nào để sử dụng những ý tưởng có công
hiệu nhứt trong tiếp thị!). Không biết những người sùng bái ông Trump ở Việt
Nam có bao giờ biết rằng Đại học Trump chỉ là một thứ đại học ma chuyên lường gạt
những người nhẹ tin và sau khi mánh lới của ông đã bị phanh phui ông đã bị phạt
phải đền trả đến 25 triệu Mỹ kim không?
Nếu sự dối trá của ông có đầu độc được nhiều người Việt
Nam trong đó có rất đông những người thân quen của tôi là bởi vì nhà nước cộng
sản Việt Nam đã cố tình hé mở những cánh cửa sổ của nhà tù để cho những luồng gió độc hại của
dối trá và các thuyết âm mưu thổi vào mà thôi.
Việt Nam đã biến thành một nhà tù từ 48 năm qua. Tôi may
mắn được trốn thoát khỏi nhà tù đó. Tôi vẫn tiếp tục xem tư cách tỵ nạn của tôi
là một thứ vốn quý giá nhứt trong cuộc đời của tôi. Hàng năm, cứ đến tháng Tư,
tôi luôn ý thức về tư cách ấy. Tôi vượt thoát ra khỏi nhà tù cộng sản là để chống
lại dối trá, độc ác và vô cảm vốn là bộ mặt thật của người đã rước chủ nghĩa cộng
sản vào cày xéo đất nước tôi và hiện là linh hồn của chế độ cộng sản. Tư cách tỵ
nạn luôn nhắc nhở tôi rằng trong cuộc đời không có gì quý hơn là sống cho Sự Thật
và những giá trị nhân bản gắn liền với sự thật. Đối lại câu nói dối trá và sáo
rỗng của Hồ Chí Minh là “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do” như tôi đã thấy
trong nhà tù cộng sản Việt Nam từ 48 năm qua, tôi chỉ muốn bắt chước giáo sư và
nhà văn Nguyễn Thanh Việt khi kết thúc quyển tiểu thuyết “The Sympathizer” (kẻ
nằm vùng) nổi tiếng của ông: “Không có gì mới thật sự là quý hơn độc lập tự
do”. Khi xuống tàu vượt biên, trên người tôi chỉ còn lại một chiếc quần đùi. Quả thật, tôi “không có gì hết”, nhưng đó cũng chính là
lúc tôi cảm nhận được điều quý giá và ý nghĩa nhứt trong cuộc đời: đó là chống
lại Dối Trá, Độc Ác, Vô Cảm và sống chết cho Sự Thật.
Chú thích:
1.
“They don’t respest us”: Backlash in Bali as Russians flee war.
https://www.aljazeera.com/economy/2023/3/15/they-dont-respect-us-russians-face-backlash-in-ba
2.
Dương Thu Hương nghĩ về Hồ Chí Minh https://baotiengdan.com/2023/05/02/duong-thu-huong-nghi-ve-ho-chi-minh/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét