Chu Văn
Tuần qua, ghé thăm một ông bạn chí cốt, thấy ông đang nằm
ôm Ipad nghe chuyện ma của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn. Hỏi sao không theo dõi thế
sự nữa, ông nói rằng ông “chán” lắm rồi, vì chính trị, nhứt là chính trị Mỹ,
quá thối nát, nghe bẩn tai. Tôi chưa từng đọc, nghe hay say mê bất cứ chuyện ma nào của nhà
văn kiêm MC Nguyễn Ngọc Ngạn. Nhưng với tôi, thoát khỏi cái vòng kim cô chính
trị hiện nay không phải là dễ. Cụ thể, tôi đang bị ám ảnh bởi một nhân vật
chính trị mà có lẽ hai thuật ngữ được nhà văn J.K Rowling sử dụng để nói đến
nhân vật phản diện Voldemort trong tập truyện Harry Potter của bà diễn tả chính
xác hơn cả. Thật vậy, Voldemort, trong thế giới phù thủy của nhà văn Rowling, đã tạo
ra một sự thần phục, say mê hoàn toàn trên một số đám đông và một nỗi sợ hãi,
kinh ghét khủng khiếp trên những đám đông khác đến độ tất cả mọi người đều chỉ
dám nhắc đến ông như “kẻ không nên gọi tên” (He Who must not be named) và “kẻ
mà ai cũng biết là ai đó” (The One every knows who he is). Tôi không muốn nhắc
đến tên nhân vật chính trị đó, bởi vì ai “cũng biết ông là ai” và ai cũng đều
biết rằng ông hiện đang gây xáo trộn và chia rẽ phải nói là khủng khiếp trong
quan hệ xã hội khắp mọi nơi chớ không riêng gì tại Hoa Kỳ.
Mới đây tôi có đọc được một bài phóng sự của Joe Pinsker trên
báo The Atlantic. Trước hết tác giả ghi lại mối quan hệ sứt mẻ giữa 2 người phụ
nữ mà tình bạn đã có từ 3 thập niên qua. Trong 15 năm qua, cứ 2 ngày thì họ đi
ăn trưa với nhau một lần và rất thường đi nghỉ hè chung với nhau. Họ cũng có mặt
trong hầu hết những dịp sinh nhựt, cưới hỏi hay ma chay trong gia đình của
nhau. Nhưng người phụ nữ được ký giả Pinsker đặt tên là Luna cho biết kể từ khi
“kẻ mà cũng biết là ai đó” được bầu làm tổng thống, người bạn của bà đã say mê
cuồng nhiệt ông ta. Luna đề nghị nên dẹp “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” sang một
bên để duy trì tình bạn. Nhưng người phụ nữ kia thà đánh mất một tình bạn keo
sơn hơn là từ bỏ “niềm tin” đối với nhân vật chính trị đó.
Ký giả Pinsker trích dẫn một cuộc thăm dò do hãng thông tấn
Reuters và Ipsos thực hiện. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy kể từ sau chiến
thắng hồi năm 2016 của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”, 16 phần trăm những người
được hỏi ý kiến cho biết rằng vì cuộc bầu cử, họ đã cắt đứt liên lạc với một
người bạn hay một người thân trong gia đình. Tôi nghĩ nay tỷ lệ ấy cao hơn rất
nhiều.
Trong số những người được ký giả Pinsker hỏi ý kiến có một
phụ nữ gốc Việt tên là Helen Nguyễn. Là một kỹ sư điện toán, người phụ nữ gốc
Việt 41 tuổi này cho biết vì bà không
thích “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” cho nên đã có những cuộc cãi vã gay gắt với
cha mình. Rồi kể từ khi Quốc hội Liên bang Mỹ chứng nhận chiến thắng của ông
Joe Biden, cha bà, mặc dù cùng sống chung trong gia đình, đã không còn nhìn mặt
bà nữa. Bà nói với ký giả Pinsker: “Tôi cảm thấy như thể chúng tôi là những người
xa lạ mặc dù sống chung dưới một mái nhà”.
Trên đây chỉ là một điển hình trong rất nhiều cuộc chia
tay giữa bạn bè, người thân trong cộng đồng người Việt tại Mỹ.
Một số người được ký giả Pinsker tiếp xúc khẳng định rằng
những ai ủng hộ “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” không đủ tư cách để trở thành một
người bạn của họ. Họ nói rằng thái độ này nói lên một sự thiếu sót về mặt đạo đức
(1).
Càng bước vào tuổi già, tôi càng trân quý tình bạn và dĩ
nhiên, với tôi, tình bạn được kết nối dựa trên một số những giá trị mà 2 bên
cùng chia sẻ với nhau. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, đó là chuyện thường tình trong
quan hệ xã hội. Nhưng sau nhiệm kỳ 4 năm của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”, mặc
dù đang sống ở tận Miệt Dưới này, tôi thấy mình cũng đã mất một số bạn và quan
hệ với một số khác đã trở nên nếu không sứt mẻ thì cũng lạnh lùng. Có những người
tôi rất muốn gặp lại để hàn gắn một tình bạn đã bị sứt mẻ, nhưng cánh cửa của
hòa giải vẫn mãi mãi bị đóng kín. Số khác, rất đông, thì lại có thái độ giữ kẽ
mỗi khi gặp lại. Tuyệt nhiên, ai cũng nắm vững một quy luật bất thành văn: chớ
đụng đến tên của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”. Tôi vẫn cố gắng giữ liên lạc với
bạn bè và người thân mà tôi biết rõ đang say mê cuồng nhiệt và ngay cả sùng bái
“kẻ mà ai cũng biết là ai đó”. Trên đời này có quá nhiều điều khó hiểu và điều
khó hiểu nhứt hiện nay đối với tôi đó là sự say mê cuồng nhiệt và sùng bái ấy.
Mới đây một cựu luật sư của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”
là bà Sydney Powell đã đưa ra một lời giải thích mà tôi không biết có nên xem
như một chút ánh sáng chiếu rọi vào sự say mê cuồng nhiệt và sùng bái của bạn
bè và người thân của tôi đối với nhân vật chính trị này không. Trong một lần xuất
hiện bên cạnh luật sư nổi tiếng của nhân vật này là ông Rudy Guiliani ngày 19
tháng Mười Một năm vừa qua, bà Powell đã thao thao bất tuyệt với vô số “bằng chứng”
về gian lận bầu cử đặc biệt nhắm vào hệ thống điện toán bầu cử có tên là
Dominion Voting Systems. Vì uy tín của mình bị hạ giảm nặng nề cho nên hãng này
đã đâm đơn kiện bà Powell và đòi một số tiền bồi thường lên đến 1 tỷ 3 trăm triệu
Mỹ kim. Dĩ nhiên tất cả những “bằng chứng” mà bà Powell đưa ra, trong đó có cả
chuyện hãng Dominion có liên hệ với nhà tộc tài của Venezuela là ông Hugo
Chavez vốn đã qua đời cách đây 8 năm, đều là những lời dối trá lố bịch. Biết
không thể chống chế được khi phải ra hầu tòa vì tội dựng chuyện để bôi nhọ hãng
Dominion cho nên qua luật sư của mình, bà Powell xin tòa bác đơn kiện của hãng
này. Lý do bà đệ trình lên tòa là: khi đưa ra các “bằng chứng” để tố cáo hãng
Dominion, bà chỉ nói lên một “ý kiến” và bà biết rõ rằng không có một “người có
lý trí” (reasonable person) nào tin lời bà (2).
Tôi thật chưng hửng khi nghe lời biện minh của bà Powell
về những lời dối trá trắng trợn của bà. Tôi không dám cho rằng bạn bè và người
thân của tôi là những người “không có lý trí” khi họ tin vào những lời dối trá
của bà Powell và nhứt là của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” và trên 30 ngàn lời
nói dối của ông ta. Cho tới nay, mặc dù việc ông Joe Biden đã tuyên thệ nhậm chức
và đã hành xử như một tổng thống từ hơn 2 tháng nay là một sự thật không thể chối
cãi được, vậy mà nhiều bạn bè và người thân của tôi vẫn tiếp tục cho rằng ông
đã đánh cướp cuộc bầu cử và tin rằng “nay mai” “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” sẽ
trở lại cầm quyền và bắt nhốt toàn bộ các lãnh tụ của Đảng Dân Chủ, kể cả cựu Tổng
thống Barack Obama và bà Hillary Clinton. Bên cạnh niềm hy vọng hão huyền ấy
còn có vô số thuyết âm mưu hiện đang được phát tán trên các trang mạng xã hội.
Lời thú nhận của bà Powell không thể không làm tôi nhớ đến
định nghĩa về con người của một trong những cha đẻ của triết học Tây Phương là
Aristotélès (384-322). Theo triết gia Hy Lạp này, “người là con vật có lý trí”. Tôi vẫn hiểu
một cách rất đơn giản về lý trí: đó là khả năng biết phân biệt thiện - ác và
chân - giả. Thú vật không có khả năng đó. Thú vật chỉ hành động theo bản năng.
Khi con người chỉ sống và hành động theo bản năng, nhứt là những bản năng thấp
hèn thì khoảng cách giữa người và thú dễ bị xóa bỏ.
Mỗi năm cứ đến Tháng Tư Đen thì có lẽ hầu như người Việt
tỵ nạn nào cũng đều nghĩ đến cái khoảng cách giữa người và thú khi những người
Cộng sản xâm chiếm Miền Nam và áp đặt chủ nghĩa cộng sản. “Sâu bọ lên làm người”
và “ người xuống hàng súc vật”. Nghe thật oái oăm, nhưng câu đối dường như muốn
nói lên một sự thật phũ phàng là khi lý trí bị đè bẹp thì con người cư xử với
nhau chẳng khác nào hay còn thua cả súc vật.
Hôm thứ Bảy 27 tháng Ba vừa qua, chính phủ quân phiệt Miến
Điện đã cử hành Ngày Quân Lực. Song song với một cuộc diễn binh rầm rộ là những
bữa tiệc linh đình của các tướng lãnh. Đại diện nhiều nước, trong đó dĩ nhiên có
Nga và Trung Cộng, đã có mặt trong những cuộc liên hoan ấy. Và cùng ngày hôm
đó, các lực lượng an ninh Miến đã xả súng vào đám đông những người biểu tình
không có võ trang khiến cho gần cả trăm người chết, trong đó có cả trẻ con.
Nhìn vào cuộc diễn binh, những bàn tiệc linh đình bên cạnh cảnh máu đổ thịt rơi
của người dân vô tội, có người đã nhớ lại câu nói để đời của ông tổ chủ nghĩa
Marxit: “Chỉ có thú vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của đồng loại để
chăm sóc cho bộ da của mình”.
Chẳng có ai muốn “xuống hàng súc vật” cả. Ai cũng muốn
người khác tôn trọng nhân phẩm được xây dựng trên lý trí của mình. Người Việt
Nam đau buồn vì một Tháng Tư Đen. Người
Mỹ gốc Phi Châu cũng có một Tháng Tư để tưởng niệm. Thật vậy, ngày mùng Bốn
Tháng Tư năm 1968 là ngày một trong những nhà tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng
nhứt thế giới là cố mục sư Martin Luther King đã bị thảm sát. Ngày hôm đó, vị mục
sư da đen này đã đến thành phố Memphis, Tiểu bang Tennessee để lãnh đạo một cuộc
đình công và tuần hành do các nhân viên vệ sinh da đen trong thành phố tổ chức
để yêu cầu được hưởng một đồng lương công bình và cải thiện những điều kiện làm
việc. Ngày hôm đó, những người tham gia cuộc biểu tình đã đeo trước ngực một tấm
bảng trên đó có viết hàng chữ: “Tôi là một con người” (I am a man). Khi những
nhân viên vệ sinh da đen tại thành phố Memphis đeo tấm bảng “Tôi là một con người”
trước ngực, họ không những muốn khẳng định sự bình đẳng như được ghi trong Hiến
Pháp của Hoa Kỳ, mà dường như cũng còn muốn nhắc lại cả một lịch sử đau thương
của một chủng tộc đã bị nô lệ hóa và đối xử chẳng khác nào thú vật chỉ vì màu
da của họ.
“Tôi là một con người”. Đó là một khẩu hiệu đáng được đưa
ra để nghiền ngẫm và nhứt là tự vấn lương tâm. Liệu tôi có thật sự là “một con
người” không khi tôi chối bỏ, xúc phạm hay chà đạp phẩm giá của người đồng loại?
Liệu tôi có thật sự là “một con người” không khi tôi từ bỏ cái phẩm giá cao quý
của con người là lý trí để chối bỏ sự thật và hùa theo những lời dối trá độc ác?
Liệu tôi có là “một con người” không khi không dám lên tiếng nói lên điều cần
phải nói hay điều mà người ta tránh nhắc tên chỉ vì không muốn làm phật lòng một
số người dù biết rằng đó vẫn là một ung thư trong giai đoạn di căn đáng sợ?
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “con người” hàm chứa một sự
thật thâm sâu: sống là một cuộc chiến liên lỉ trong đó nếu những bản năng thấp
hèn lấn lướt lý trí thì nhân cách sẽ bị thui chột. Nói cách khác, phần “người”
chỉ thật sự được thăng hoa khi phần “con” được thu nhỏ lại.
Chú thích
1.
https://www.theatlantic.com/family/archive/2021/03/trump-friend-family-relationships/618457/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét