Zaheena Rasheed
Chu Thập chuyển ngữ
Đại dịch Covid-19 đang đe dọa mạng sống và cuộc sống của
con người trên khắp thế giới.
Chỉ trong 3 tháng, đã có hơn một triệu người tại trên 180
quốc gia bị nhiễm bệnh và ít nhất 50.000 người chết vì một cơn dịch mà Liên Hiệp
Quốc gọi là “cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất” đối với thế giới kể từ Đệ nhị Thế
chiến.
Tại nhiều vùng rộng lớn trên trái đất, việc “đóng cửa” nhằm
chận đứng sự lây lan của siêu vi đã khiến cho cuộc sống và hoạt động kinh tế dậm
chân tại chỗ. Ở những vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, các bệnh viện đã quá tải
vì số bệnh nhân và người chết, trong khi đó khắp nơi người nghèo và những người
dễ bị tổn thương phải đương đầu với tình trạng thiếu thốn lương thực và chết
đói.
Hôm thứ Ba (mùng Bảy tháng Tư 2020) vừa qua, khi nhấn mạnh
đến nguy cơ mà cuộc khủng hoảng đang đặt ra cho hòa bình và sự ổn định trên thế
giới, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông Antonio Guterres đã gởi đến các chính trị
gia lời kêu gọi khẩn thiết hãy “bỏ qua một bên những trò chơi chính trị” và ngồi
lại với nhau để “đối phó một cách mạnh mẽ và hữu hiệu” (với cuộc khủng hoảng).
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc nói: “Thế giới đang đối đầu với
một thử thách chưa từng có. Và đây là lúc phải hành động”.
Thật ra, những hệ lụy của cuộc khủng hoảng lẽ ra không
nên cao hơn.
Cuộc sống hay cái chết của hàng triệu người tùy thuộc vào
những quyết định mà các nhà lãnh đạo thế giới sẽ làm trong những ngày và tuần lễ
sắp tới. Nhưng các nhà phân tích lại nói rằng những dấu hiệu mới nhất thật dáng
lo ngại.
Tại một số quốc gia, vì lợi ích riêng tư, vì không tin tưởng
vào khoa học hay vì sợ kinh tế sụp đổ, các nhà lãnh đạo đã đối phó bằng sự do dự
và phủ nhận.
John M Barry, một sử gia đã từng nghiên cứu về cơn đại dịch
cúm Tây Ban Nha trong đó đã có 100 triệu người bị thiệt mạng hồi năm 1918, nói:
“Tại nhiều nước, thật đáng buồn. Tại một số nước, thật đáng lên án vì hành động
của một số nhà lãnh đạo sẽ khiến cho nhiều công dân phải chết một cách không cần
thiết”.
Tại Trung Quốc của ông Tập Cận Bình, là nơi cơn bệnh đã
được phát giác trước tiên hồi cuối tháng Mười Hai năm vừa qua, chính quyền đã bị
tố giác đang bưng bít và trừng phạt những bác sĩ nào đã lên tiếng báo động khi
đại dịch vừa mới bùng phát. Đây là những hành động mà những người chỉ trích nói
rằng đã cho phép siêu vi phát tán từ trung tâm thành phố Vũ Hán ra mọi hang
cùng ngỏ hẻm trên thế giới.
Tại Hoa Kỳ, thoạt tiên Tổng thống Donald Trump đã xem thường
tính nghiêm trọng của mối đe dọa khi ông tiên đoán rằng siêu vi sẽ “biến mất”
như “một phép lạ” và hạ giảm các mối lo
ngại ngày càng gia tăng khi nói rằng dịch bệnh chỉ là một “cú lừa” của các đối thủ chính trị của ông. Ông chỉ thay đổi giọng
điệu đó hồi tuần trước sau khi các cuộc thăm dò cho thấy dân chúng ngày càng lo
âu và các chuyên gia tiên đoán rằng sẽ có 200.000 người chết tại Hoa Kỳ nếu
không có những biện pháp ngăn chận sự lây lan.
Tại Ba Tây, Tổng thống Jair Bolsanaro cứ tiếp tục phủ nhận
dịch bệnh mà ông gọi là chuyện “tưởng tượng” hoặc chỉ như “một thứ cúm nhẹ”. Chỉ
mới tuần vừa qua, ông đã thách thức lời khuyên của các viên chức y tế của ông về
việc phải tránh tiếp xúc khi đi thăm các khu phố ở Thủ đô Brasilia để kêu gọi
dân chúng trở lại làm việc.
Trong khi đó tại Mễ Tây Cơ, hồi cuối tháng Ba vừa qua, Tổng
thống Andres Manuel Lopez Obrador đã tổ chức các cuộc biểu tình, ôm hôn những
người ủng hộ ông và thúc đẩy người dân Mễ hãy “sống bình thường”. Tổng thống Mễ
đã hành động như thế mặc dù chính Bộ trưởng Y tế của nước này đã kêu gọi dân
chúng nên ở nhà để tránh lây lan.
Giáo sư Charles Call, thuộc Viện Brookings có trụ sở tại
Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nói rằng hành động của các nhà lãnh đạo trên đây làm nổi
bật “thái độ thù nghịch đối với khoa học và các cơ chế nhà nước”. Viết trên
Blog của ông, giáo sư Call nói rằng thái độ ngạo mạn của các nhà lãnh đạo trên
đây đang bị nhiều người chỉ trích. Ông tiên đoán rằng cuộc khủng hoảng sẽ là một
“cuộc trắc nghiệm về chủ nghĩa dân túy” tại các nước này.
Tại Nam Dương, hồi
tuần trước, Tổng thống Joko Widodo đã nhìn nhận rằng ông đã cố tình bưng bít
thông tin về sự bùng phát của đại dịch. Ông nói rằng đây là một chiến thuật nhằm
ngăn ngừa sự sợ hãi của dân chúng. Trong những ngày đầu khi dịch bệnh bùng
phát, một số bộ trưởng của ông đã nói rằng sự cầu nguyện có thể ngăn ngừa được
dịch bệnh, trong khi đó những người khác lại cho rằng thời tiết ấm áp của Nam
Dương có thể làm cho việc lây lan bị chậm lại.
Viết trên báo The Diplomat, ông Asmiati Malik, giáo sư phụ
khảo tại Đại học Universitas Bakrie của Nam Dương, cho rằng thái độ “phi khoa học”
của chính phủ bắt nguồn từ những quan ngại về tinh trạng kinh tế của quốc gia
có dân số đông đứng hàng thứ tư trên thế giới. Tuy nhiên theo giáo sư Malik, phủ
nhận và giới hạn sự truy cập thông tin của
dân chúng về sự lây lan của dịch bệnh là một chính sách có thể gây tử vong cho
hàng ngàn người.
Theo sử gia Barry,
sự phủ nhận và chậm trễ (trong việc đối phó với dịch bệnh) sẽ gây thiệt hại cho
những nước này khi đến một lúc phải đưa ra những giới hạn cứng rắn hơn để chận
đứng dịch bệnh. Ông nói “Nếu bạn chờ đợi
dân chúng sẽ tuân thủ lời kêu gọi giữ khoảng cách xã hội (social distancing),
thì phải làm sao để họ tin vào lời kêu gọi đó. Nếu dân chúng không tin tưởng những
người đưa ra lời kêu gọi đó thì họ sẽ không tuân thủ và một khi không có sự
tuân thủ thì lời kêu gọi đó sẽ không hữu hiệu”.
Đây là lý do tại sao bài học duy nhất và quan trọng nhất
từ đại dịch năm 1918 là: “hãy nói sự thật”
Có một số nhà lãnh đạo đã làm điều đó.
Ngày 11 tháng Ba, khi sự lây nhiễm đã bắt đầu gia tăng mạnh
tại Ý, thủ tướng Đức, bà Angela Merkel đã nói rằng sẽ có đến 70 phần trăm dân
chúng Đức bị lây nhiễm. Lời cảnh cáo này hoàn toàn đi ngược lại với những lời
tuyên bố của các chính trị gia khác vào thời điểm đó. Một tuần lễ sau, trong một
bài diễn văn đươc truyền hình, bà thủ tướng đã kêu gọi dân Đức hãy tôn trọng những
giới hạn nghiêm nhặt về việc đi lại và giao tiếp xã hội. Bà nói: “ Tình trạng
thật nghiêm trọng. Hãy ứng phó một cách nghiêm chỉnh. Trong một thể chế dân chủ, không nên xem thường những giới hạn như thế,
ngay cả chỉ là tạm thời. Nhưng hiện nay, đây là những giới hạn cần thiết để cứu
mạng người”.
Kể từ đó, tại Âu Châu, Đức đã dẫn đầu trong việc xét nghiệm rộng rãi về Covid-19 : kể từ
lúc xảy ra cuộc khủng hoảng, đã có gần một triệu người được xét nghiệm. Và mặc
dù đang đứng hàng thứ năm trên thế giới về con số người bị nhiễm bệnh, với trên
80.000 người bị nhiễm, Đức vẫn có số tử vong thấp nhất trong nhóm này.
Ca ngợi Thủ tướng Merkel, bà Judy Dempsey, thuộc viện
Carnegie Europe, nói rằng hành động của thủ tướng “vạch ra con đường phía trước
để có một sự đáp ứng thống nhất và cương quyết. Đây là một đáp ứng cần thiết và
cho thấy các nền dân chủ có thể thực hiện cách tốt nhất”.
Tại Tân Gia Ba, Thủ tướng Lý Hiển Long cũng được ca ngợi
vì đề ra một chiến dịch truy tìm và xét nghiệm gắt gao nhờ đó, kể từ khi dịch bệnh
bùng phát, chỉ có khoảng 1000 người bị lây nhiễm. Trong một cuộc phỏng vấn trên
đài CNN hôm chủ nhật (Mùng Năm tháng Tư vừa qua), Thủ tướng Tân Gia Ba nói rằng
sự trong suốt và tin tưởng là những yếu tố nền tảng trong cuộc chiến của Tân
Gia Ba chống lại siêu vi. Ông nói: “Chúng tôi hành động một cách trong suốt. Nếu
có tin xấu, chúng tôi sẽ cho bạn biết. Nếu có những điều cần phải làm, chúng
tôi cũng sẽ nói cho bạn biết. Nếu dân chúng không tin tưởng bạn thì ngay cả khi bạn có đề ra những biện pháp đúng
đắn, rất khó để tuân thủ”.
Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in, nữ Thủ tướng Tân Tây Lan
Jacinda Ardern và Tổng thống El Salvador Nayib Bukele cũng đều được ca ngợi vì
đã hành động một cách trong suốt và cương quyết.
Tuy nhiên không thiếu những nhà lãnh đạo bị tố cáo đang lợi
dụng cuộc khủng hoảng để thu tóm quyền lực.
Hôm thứ Hai (mùng Sáu tháng Tư vừa qua), thủ tướng Hung
Gia Lợi Viktor Orban đã được trao quyền không giới hạn để cai trị bằng sắc lệnh:
theo một luật mới, người dân nào phát tán “thông tin giả” sẽ bị phạt tù năm
năm. Các nhà phê bình cho rằng luật này có thể được dùng để khóa miệng các ký
giả. Những quan ngại tương tự cũng được nêu lên tại Phi Luật Tân là nơi tổng thống
Rodrigo Duterte tự trao cho mình những quyền hạn trong tình trạng khẩn trương cho
phép ông nại đến những tin giả về Covid-19 để đàn áp.
Tại Israel, Thủ tướng Benjamin Netanyahu sử dụng tình trạng
khẩn trương về đại dịch để cho phép các cơ quan tình báo theo dõi công chúng và
đóng cửa các tòa án trước khi các cáo buộc về hành động tham nhũng của ông được
mang ra xét xử.
Meenakshi Ganguly, giám đốc chi bộ Nam Á của Tổ chức Theo
dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) nói: “Chúng tôi nhìn nhận rằng cơn đại dịch
này đang đặt ra một trắc nghiệm chưa từng có đối với các nhà lãnh đạo thế giới.
Vấn đề của chúng ta là một số nhà lãnh đạo đã có những toan tính độc tài. Đây
không phải là thời gian để làm chính trị...bất cứ một quyền hành nào trong tình
trạng khẩn trương cũng cần phải tương xứng và các chính phủ phải luôn luôn bảo
vệ quyền lợi của người dân”.
Ngoài việc thu tóm quyền lực, các nhà quan sát còn lo ngại
về cuộc đấu đá giữa các cường quốc, nhất là giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Tức giận
trước việc Hoa Thịnh Đốn cứ liên tục dán cho Covid-19 cái nhãn hiệu “Siêu vi
Tàu”, các viên chức tại Bắc Kinh hiện đang phản công bằng cách tuyên truyền mà
không đưa ra bất cứ bằng chứng nào rằng chính quân đội Mỹ đã mang siêu vi này vào
Vũ Hán.
Mối quan hệ ngày càng tồi tệ giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng,
cũng như việc Hoa Kỳ dựa vào chính sách
“Hoa Kỳ trước tiên” của ông Trump để rút lui khỏi chính trường thế giới, đang cản
trở một hành động phối hợp trước cơn đại dịch.
Charles Kupchan, thuộc Hội đồng Quan hệ Ngoại giao có trụ
sở tại Hoa Kỳ, cho rằng hiện “không có bất
cứ một sự đáp ứng toàn cầu nào. Và đây là một vấn đề lớn bởi vì cuộc khủng hoảng
sẽ được giải quyết một cách tốt đẹp hơn nếu những nước lớn ngồi lại với
nhau. Khi xảy ra dịch Ebola hồi năm 2014
hay trong cuộc khủng hoảng tài chính hồi năm 2008, Hoa Kỳ là nước đã đứng ra và
lên tiếng: “Chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết vấn đề như thế nào?” Nhưng những ngày như thế không còn nữa. Chính
phủ Trump đã tỏ ra cực kỳ chậm chạp trong việc đối phó với cuộc khủng hoàng
trong nước và việc lãnh đạo của ông ở nước ngoài đã giới hạn tối đa”.
Kupchan nói: “Đây có thể là một tai họa cho những người dễ
bị tổn thương nhất trên thế giới”. Theo ông “Những vấn đề cốt lõi cần phải được giải quyết là cung cấp và phân phối các
thiết bị y tế, chia sẻ những cách thức tốt nhất về xét nghiệm và cô lập cũng
như đối phó với những cộng đồng có thu nhập thấp. Điều tồi tệ nhất mà tôi lo sợ
là khi Covid-19 tấn công vào các trại tỵ nạn và những nước có
hệ thống y tế kém phát triển. Đây có thể sẽ là một cuộc tàn phá rộng lớn”.
Nguồn: Zaheena Rasheed, Covid-19 pandemic is testing
world leaders. Who’s stepping up?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét