Gởi bạn hiền V.P.
Chu Thập
Vi Phát là một họa sĩ, nhà điêu khắc và nhiếp ảnh gia được
nhiều người Việt ở Úc Đại Lợi biết và mộ mến. Có lần ông giải bày rằng ông làm
“nghệ thuật vị nghệ thuật” chớ không phải để kiếm sống. Ông sáng tác vì nhu cầu
và sự thúc bách để sáng tác hơn là để mưu sinh. Có đến nhà ông mới thấy điều
đó. Từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ ngõ ra vườn, ở đâu cũng ngổn ngang những tác phẩm của ông, ở
xó nào cũng có dấu ấn của bàn tay phù thủy của ông, chỗ nào cũng là khu triển
lãm nghệ thuật của ông. Không biết mai
kia, sau khi ông về cội, có ai đó sẽ khám phá ra kho tàng nghệ thuật của ông
không. Giá ông xuất hiện vào thời tôi còn ở bậc trung học, khi làm bài văn nghị
luận với đề bài “nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh”, chắc chắn
tôi không thể không nghĩ tới ông.
Nghệ sĩ sống chết cho nghệ thuật như Vi Phát không phải
là hiếm. Có khi vì hết mình với nghệ thuật mà nhiều người mới có được cảm hứng
để sáng tác. Nhưng nghệ sĩ cũng là con người. Họ cũng phải có phương tiện để sống.
Với nhiều người, sáng tác nghệ thuật cũng là một nghề để kiếm cơm. Ngày nay hầu
hết các nghệ sĩ nổi tiếng đều là những người giàu có. Họ hái ra tiền nhờ tài
nghệ của họ. Điều này lại càng đúng hơn trong lãnh vực văn chương. Tôi nghĩ đến
một trong những người phụ nữ giàu có nhứt thế giới hiện nay là bà J.K Rowling
sau khi cho ra đời bộ tiểu thuyết giả tưởng Harry Potter. Rất có thể khi bắt
tay vào việc sáng tác có lẽ người phụ nữ này không hề nghĩ đến tuyệt đỉnh của
danh vọng và giàu có mà tác phẩm của bà đã mang lại cho bà. Nhưng với một số
người, ngòi bút thường là cần câu để kiếm cơm. Không ngoa để bảo “nhà báo nói
láo ăn tiền”. Điều này hoàn toàn đúng trong các chế độ độc tài, nhứt là độc tài
đảng trị cộng sản. Trong chế độ cộng sản, có nhà văn nhà báo nào mà không uốn
cong ngòi bút của mình để kiếm cơm và sống còn.
Điển hình của hình tượng ngòi bút bị uốn cong trong chế độ
cộng sản là thi sĩ Xuân Diệu. Nhiều người ở miền Bắc khâm phục ông. Họ nâng ông
lên thành một tấm gương sáng cho giới cầm bút, bởi vì ông “sáng tác” không ngừng
nghỉ. Thật ra, sai lầm lớn nhứt của ông là nghĩ rằng tài năng của một nhà văn
nhà thơ tùy thuộc vào số trang sách mình viết được. Thành ra, thay vì sáng tạo nghệ thuật, ông chỉ
làm một nhà sản xuất; thay vì nhắm đến việc tạo nên những tác phẩm có giá trị
nghệ thuật cao, ông lại miệt mài tăng thêm số chữ và số trang. Hơn nữa, trong
khát vọng muốn làm một cái gì hữu ích cho xã hội (dĩ nhiên xã hội cộng sản) và
chế độ mà ông đang cúc cung phục vụ, “ông đã đồng nhứt nhiệm vụ của một người cầm
bút với nhiệm vụ của một cán bộ”. Nói cho cùng, “thay vì nhắm đến những giá trị
thẩm mỹ lâu dài, ông chỉ nghĩ đến việc phục vụ những nhu cầu nhứt thời và khá
phù phiếm của xã hội” (Nguyễn Hưng Quốc, Viết, trong tập san Việt, Cộng hòa Văn
chương Thế kỷ 21, Úc Châu, 2000, trg 83). Thật đáng tiếc và cũng đáng thương
cho một người đã từng là một nhà thơ tài hoa hay, như Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc
đã nhận xét, “cực kỳ tài hoa của một thời, thời 1932-45, trong Phong trào Thơ Mới”.
Thật ra, trong chế độ cộng sản ở Việt Nam, nhan nhản như
ruồi nhặng những con người như Xuân Diệu. Như Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã phân
biệt: rất nhiều người được nâng lên hàng “văn sĩ” (écrivain) ở Việt Nam thật ra
chỉ là những kẻ “dụng văn” (écrivant), tức những kẻ chỉ biết xếp 24 chữ cái cho
ra câu cú mà thôi!
Gần đây tôi cũng tập tành “viết lách”. Tuy không bị buộc
phải uốn cong ngòi bút để phục vụ cho một chế độ hay đảng phái chính trị nào hoặc
phải rán nặn óc để kiếm chút cơm cháo, tôi thấy mình chưa vượt qua được ngưỡng
cửa của một kẻ “dụng văn”. Có lúc tôi cảm thấy ngượng đến chín người khi được
ai đó tặng cho danh hiệu “nhà văn” hay “ nhà báo”.
Nhưng tại sao tôi lại “viết lách”? Viết để làm gì? Có một
thời tôi thích viết “nhựt ký”: ngày nào cũng ghi nhớ ngày tháng và viết xuống
những cảm xúc và suy nghĩ của mình về một sự kiện hay một biến cố nào đó xảy ra
cho mình hay xung quanh mình. Đọc lại thấy ngô nghê và buồn cười quá, sợ có người
đọc được cười nhạo cho nên tôi xé bỏ hết. Vốn sống của tôi lại quá nghèo nàn
cho nên tôi cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc viết hồi ký. Vả lại, như một giáo
sư Triết của tôi đã khuyên, khi nào biết mình sắp chết và tin chắc tư tưởng của
mình không còn thay đổi nữa, lúc đó hãy viết!
Hiện nay, thỉnh thoảng tôi cầm bút hí hoáy vài trang. “Viết
chơi” như nhà văn Võ Phiến đã luận bàn (Võ Phiến, Viết Chơi, trong tập san Việt, Úc Đại Lợi 2000, trg 134) chớ
không phải để kiếm cơm. Chẳng có lý do gì để “lách” và cũng chẳng xem đó như “di
sản” muốn để lại cho hậu thế hoặc nhắm đến ai cả. Viết, với tôi hiện nay, trước
hết là viết cho bản thân, là nói với chính mình.
Sở dĩ có chuyện nói với chính mình là bởi lúc nào tôi
cũng nhận thấy trong tôi có 2 cái tôi: một cái tôi lúc nào cũng mách bảo tôi phải
tiến tới dưới tấm bảng chỉ đường của lý trí và đạo đức và một cái
tôi lúc nào cùng kéo tôi lùi lại với những bản năng thấp hèn. Đâu cần phải bị
“nhị trùng bản ngã” (dédoublement de personalité) hay mắc chứng “tâm thần
phân liệt” (schizophrenia) mới thấy trong mình lúc nào
cũng có cuộc chiến giữa hai cái tôi ấy. Khi tôi cầm bút viết là lúc cái tôi của
lý trí đang cố gắng nói phải trái với cái tôi của những bản năng thấp hèn trong
tôi. Một cách cụ thể, mỗi khi tôi cầm bút, cái tôi của lý trí khuyên bảo cái
tôi tham lam, ích kỷ, thù hận, vô cảm trong tôi ...hãy cố gắng làm chủ những cảm
xúc tiêu cực để sống cho ra người tử tế hơn. Thành ra, với tôi, viết và sống là
một. Viết
những gì mình cố gắng sống và sống những gì mình viết. Tôi muốn hiểu
câu nói “văn là người” (le stile c’est l’homme) hay “văn dĩ tải đạo” của người Á Đông theo ý nghĩa
ấy. Hay như thi sĩ Boileau (1636-1711) của Pháp đã khuyên : “Điều gì được
thai nghén kỹ càng mới được bày tỏ một cách rõ ràng” (Ce qui se concoit bien s’énonce clairement). Viết là thể hiện niềm xác tín được thai
nghén, hình thành và sống một cách tích cực trong cuộc sống mỗi ngày.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét