Chu Thập
16/1/15
Đầu năm, xem cuốn phim “The Interview” (cuộc phỏng vấn), tôi đã có được một
trận cười...chảy nước mắt. Thương cho cuộc sống bị hạ thấp còn hơn cả nô lệ và
súc vật của không biết bao nhiêu người dân Bắc Hàn.

Xuất hiện trong chương trình “Insight” của đài SBS dạo tháng Tư năm vừa
qua, một nữ sinh viên tên là Yeonmi Park cho biết cô sinh ra và sống dưới chế độ
cộng sản Bắc Hàn cho đến năm 15 tuổi. Cô khẳng định: “Trong 15 năm đầu cuộc đời
của tôi, tôi đã tin rằng Kim Jong-il là một vị thần. Tôi đã không bao giờ nghi
ngờ điều đó, bởi vì tôi đã không hề biết một điều gì khác. Ngay cả tôi cũng
không thể tưởng tượng được cuộc sống bên ngoài chế độ như thế nào”. Vì tin rằng
chủ tịch vĩ đại và vô vàn kính yêu có thể đọc được tư tưởng của mình, cho nên
cô gái Bắc Hàn này luôn phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói và suy nghĩ của
mình.
Cô Park kể lại rằng cha cô đã từng là một viên chức chính phủ. Cho nên so
sánh với một số người khác, cuộc sống của gia đình cô tương đối dễ thở hơn.
Nhưng bị tình nghi có phạm một điều sai trái gì đó, cha cô đã bị giam tù 3 năm.
Trong chế độ cha truyền con nối này, cha phạm tội thì con cũng hết đất sống.
Đây là lý do khiến gia đình cô đã quyết định rời bỏ thủ đô Bình Nhưỡng để tìm về
một vùng quê gần biên giới Trung Quốc và tìm cách vượt thoát. Sau một thời gian
sống chui nhủi ở Trung Quốc, gia đình cô đã “vượt biên” sang Nam Hàn. Nhưng
ngay cả sau khi được đặt chân lên vùng đất tự do, cô gái đã từng sống 15 năm đầu
đời trong chế độ cộng sản Bắc Hàn vẫn nghĩ rằng lãnh tụ Kim Jong-il tiếp tục đọc
được tư tưởng của mình, cho nên cô không bao giờ dám có một ý nghĩ tiêu cực về
chế độ này. Mãi một thời gian sau khi được “trục độc”, cô mới biết được rằng
Kim Jong-il là một nhà độc tài và nhờ hiểu được thế nào là xã hội chủ nghĩa, thế
nào là cộng sản chủ nghĩa và thế nào là tư bản chủ nghĩa, cô mới học được nhiều
điều mới lạ và cuối cùng nhận ra sự thật.
Cô Park chia sẻ: “Tôi đã nhận ra rằng tất cả những điều suy nghĩ trước kia
của tôi đều là dối trá. Tôi đã không phải là một con người thật. Tôi đã được “chế
tạo” cho chế độ để phục vụ họ. Nếu họ ra lệnh cho tôi phải chết, tôi cũng phải chết
cho họ. Tôi không phải là một con người. Tôi là một cái gì khác. Chắc chắn, tôi
đã không được đối xử như một con người. Tôi đã không biết được thế nào là tự
do. Phải mất ba năm tôi mới hoàn toàn được gột rửa khỏi sự tẩy não” (x.Sydney
Morning Herald, Daily Life 12/4/2014).
Nhận ra mình là một “con người” có đầy đủ các nhân quyền và được sống tự do:
có lẽ chỉ có những ai đã từng sống trong địa ngục trần gian của một chế độ cộng
sản độc tài như cô Park trên đây, mới nhận ra được bộ mặt dối trá và lố bịch của
các diễn viên hề trong các chế độ độc tài, đồng thời ý thức được phẩm giá đích
thực của mình.
Đầu năm, song song với cuốn phim “The interview” về chế độ cộng sản Bắc Hàn, tôi cũng cảm thấy được “bồi dưỡng” rất
nhiều khi đọc hồi ký “Đèn Cù II” của cụ Trần Đĩnh. Cũng như “Đèn Cù I” và với
nhiều chi tiết hơn, “Đèn Cù II” có lẽ cũng có nội dung chẳng khác nào cuốn phim
“The Interview”. Nhưng là người trong cuộc, cụ Trần Đĩnh đã dựng lại vở hài kịch
của chế độ cộng sản Việt Nam một cách trung thực và sống động hơn. Có thể nói rằng
cuộc hành trình mà cụ Trần Đĩnh đã giải bày trong “Đèn Cù II”, như nhận định của
kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, là một cuộc hành trình “trục độc”. Nói cách
khác, tác giả đã từng viết tiểu sử của ông Hồ Chí Minh và hồi ký của nhiều nhân
vật chóp bu trong chế độ cộng sản Việt Nam, đã cố gắng qua từng trang sách, khi
ghi lại các sự kiện trong thâm cung bí sử của Đảng cộng sản Việt Nam, làm điều
mà cụ gọi là “càng lột bỏ bộ mặt nạ trên tôi, thì tôi mới càng là tôi” (trg
24).
Có lẽ đây là điệp khúc thường được tác giả lập lại trong hồi ký tập II này.
Theo cụ Trần Đĩnh, tất cả những người đã từng đi theo chủ nghĩa cộng sản hoặc
góp phần xây dựng và củng cố chế độ này từ lúc còn trong trứng nước cho đến
nay, đều là những táo quân trần truồng quay cuồng trong chiếc đèn cù là chế độ
cộng sản (trg 65).
Tấn tuồng “đèn cù” mà chế độ cộng sản Việt Nam đã dựng lên đã được cụ Trần
Đĩnh mượn lời của danh hài Charlie Chaplin trong cuốn phim “Tên Độc Tài” để tóm
tắt như sau: “Các bạn, các chiến binh,
các bạn đừng dâng mình cho những con thú, những kẻ bắt các bạn làm nô lệ, đặt đời
các bạn vào trong hệ thống, điều khiển hành động, ý nghĩ và cảm xúc của các bạn!
Chúng rèn giũa các bạn, kiểm soát khẩu phần của các bạn, coi các bạn như bầy
gia súc. Chúng là những kẻ dị dạng, những người máy với bộ óc máy, những con
tim máy và chúng đã hứa hẹn và rồi lừa các bạn. Chúng giành tự do cho chúng còn
các bạn thì thành nô lệ. Các bạn không phải là những cỗ máy, không phải là gia
súc mà là những con người! Là con người, các bạn bây giờ hãy chiến đấu cho tự
do, hãy không chịu làm nô lệ...” (trg 318).
Trong cái chế độ đã biến thành sân khấu này, “làm người”, như tác giả “Đèn
Cù II” đã ghi lại câu nói sâu sắc của một cán bộ sơ cấp tên là Đảm, là điều “khó
nhất”. Theo anh cán bộ này “sợ nhất là nói. Khó nhất là làm người”. Chính vì sống
như một con người có ý thức về các quyền và tự do của mình là điều khó nhất,
cho nên người dân và nhất là những người cộng sản, đành phải đóng kịch. Đóng kịch
trước mặt các “chủ nô” đã đành, mà cũng phải đóng kịch với nhau.
Trong hồi ký “Viết về bè bạn”, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, người vừa mới qua đời
hôm 18/12/14 vừa qua, có kể lại một giai thoại cười ra nước mắt về nhà văn Mặc
Lân, con trai của nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964). Theo tác giả của “Chuyện kể
năm 2000”, năm 1971, nhà văn Mặc Lân bị đặt vào tình thế phải nghỉ hưu non. Ông
“không được viết, hoặc được viết nhưng không được in hay được in nhưng không được
ký tên cũng không được nhận tiền nhuận bút”. Nhưng nhờ vậy mà ông lại có nhiều
việc đề làm. Nhiều “văn nô” đã tìm đến ông để nhờ ông viết dưới danh nghĩa của
họ. Hợp đồng thường là 50/50, nghĩa là nhuận bút chia đôi. Nhưng cũng không thiếu
trường hợp kẻ nhận tiền nhận bút “quịt” luôn. Mà bởi hợp đồng được ký bằng miệng
cho nên chẳng biết khiếu nại với ai.
Tác giả Bùi Ngọc Tấn kể lại một “hài kịch” về chuyện viết thuê này. Một anh
cán bộ thích nổi danh đã đến gặp Mặc Lân để đặt hàng. Anh giải thích với vợ rằng
vì thấy Mặc Lân túng thiếu cho nên mới cầm bản thảo đến nhờ ông chép lại cho rõ
ràng và giúp đỡ để sống qua ngày. Sau khi tác phẩm được hoàn tất và người cán bộ
nhận được một số tiền nhuận bút hậu hĩ, Mặc Lân đến nhà anh ta để nhận thù lao
như hai người đã đồng ý với nhau theo hợp đồng miệng. Chẳng may hôm đó người vợ
lại ngồi kè kè bên cạnh chồng. Sau mấy tiếng đồng hồ trò chuyện, Mặc Lân đành
ra về tay không. Mấy ngày sau, người vợ của anh cán bộ tìm đến nhà Mặc Lân,
trên tay có cầm một bì thư có tiền. Chị nói: “Anh đánh rơi tiền ở nhà tôi đây
này. Khi anh về, nhà tôi thấy ở gầm ghế anh ngồi có số tiền này, hỏi tôi tiền nào đây. Chồng không mất,
vợ không mất. Anh ấy bảo thế thì chỉ có tiền anh Lân đánh rơi mà thôi”. Phải mất
một hồi lâu, nhà văn Mặc Lân mới hiểu và reo lên: “Chết rồi. Đúng rồi. Tiền vợ
tôi nó vừa lĩnh họ đưa cho tôi lúc chiều. May quá. Cám ơn anh chị”.
Lần khác, theo tác giả “Chuyện kể năm 2000”, truyện do Mặc Lân viết thuê lại
được giải thưởng. Nhưng vì hợp đồng được ký qua trung gian của một người khác,
cho nên “tác giả” nhận giải thưởng không hề biết Mặc Lân. Gặp ông, “tác giả”
lên mặt kể đến một số đoạn do mình “sáng tác”. Mặc Lân chỉ biết cười thầm trong
bụng (Bùi Ngọc Tấn, Viết Về Bè Bạn, Tiếng Quê hương, Hoa Kỳ 2005, trg 68-74).
Trong chế độ mà người sáng lập đã có thể tự viết tiểu sử dưới một danh hiệu
khác để tự đề cao mình lên chín tầng mây thì cuộc sống có trở thành một sân khấu
và mọi người đều trở thành diễn viên hài, chẳng có gì đáng gây ngạc nhiên cả.
Chỉ có điều con số những người biết dừng lại và tìm cách ra khỏi cái vòng quay của chiếc đèn cù để chấm dứt
vai diễn của mình và sống thực với con người của mình, không phải là nhiều. Cụ
Trần Đĩnh thuộc con số ít ỏi ấy. Cụ đã trích dẫn một câu nói thời danh của triết
gia Đan Mạch Soren Kierkegaard (1813-1855) để không ngừng tự cảnh tỉnh: “Mày
là thế nào thì hãy sống hết lòng như thế đó” (Sois de tout coeur ce que
tu es) ( trg 37).
Xem cuốn phim “The Interview”, đọc “Đèn Cù II” rồi nghĩ đến không biết bao
nhiêu chế độ độc tài vẫn còn thống trị trong thế giới ngày nay, tôi lại liên tưởng
đến khẩu hiệu “Je suis Charlie” (tôi là Charlie) mà người dân Pháp đã giăng
tràn ngập ở thủ đô ánh sáng Paris sau vụ sát hại 10 ký giả và họa sĩ của tuần
báo trào phúng “Charlie Hebdo”. Với người dân Pháp, tuần báo này là biểu tượng
của mọi quyền tự do trong đó quan trọng hơn cả là tự do ngôn luận và phát biểu.
Kể từ cuộc cách mạng năm 1789, “tự do muôn năm” (vive la liberté) đã trở thành
cốt lõi cuộc sống văn minh của người Pháp. Sống như một con người và nhứt là
như một người tự do, đó là thông điệp mà chắc chắn người dân Pháp muốn nhắn gởi
cho thế giới trong những ngày vừa qua.
Trong tình liên đới với các nạn nhân của vụ thảm sát ở Paris hôm thứ Tư 7
tháng Giêng vừa qua và nhứt là muốn nhắn gởi với các chế độ độc tài, dù là
chính trị hay tôn giáo, tôi cũng muốn thốt lên “tôi cũng là Charlie”. Và dĩ
nhiên, cùng với khẩu hiệu này, tôi cũng tự nhắc nhở mình rằng để sống như một
con người tự do đích thực, tôi không thể không sống theo nguyên tắc đạo lý nền
tảng: “Những gì ngươi không muốn người khác làm cho ngươi, ngươi cũng đừng
làm cho họ”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét