Chu Thập
17.06.11

Chính vì vậy mà mỗi sáng Chúa
nhựt, trước khi đến nhà thờ, tôi thích đi bách bộ trên những con đường ở vùng
North Shore, Bắc Sydney. Ở đây nhà cửa, biệt thự đẹp và sang trọng. Nhưng điều
tôi thích nhứt là có nhiều cây phong (maple) với lá đổi mầu. Ánh bình minh ló dạng
thường mang đến không biết bao nhiêu bức tranh để chiêm ngắm. Với niềm xác tín “Bình an trong mỗi bước đi”, những buổi
đi dạo trên những con đường trong khu nhà giàu ấy luôn mang lại cho tôi bình an
và thanh thản. Quả thực, những ngôi nhà sang trọng là những bức tranh để thưởng
lãm.
Càng ngắm nghía những tòa nhà
đẹp đẽ này, tôi càng tin chắc rằng người ta không chỉ cất nhà để trú ngụ, mà
còn để “khoe” cái nhãn hiệu nhà giàu của mình.
Đành rằng nhà cửa cũng là biểu hiện của sự giàu sang, nhưng điều đó chẳng
mảy may có tác động nào đối với tôi. Trong cái nhìn của tôi, những ngôi biệt thự
kiểu cọ, sang trọng với những khu vườn hài hòa ấy chỉ là những tác phẩm kiến trúc
để mà chiêm ngắm. Nói như thế không có nghĩa là tôi không màng đến những người
đang sống trong những ngôi nhà ấy. Những chiếc xe với những nhãn hiệu như
Lexus, BMW, Mercedes, Audi…đậu trước những ngôi nhà sang trọng ấy ngầm nói với
tôi rằng chủ nhân của những ngôi nhà này thuộc giai cấp giàu sang và trưởng giả.
Họ có thể là những người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, được thừa hưởng sản
nghiệp của ông bà, cha mẹ để lại. Họ có thể là những người từ bàn tay trắng dựng
nên sự nghiệp. Họ có thể là những người đã thành công trong việc sách đèn và
vươn lên trong các bậc thang xã hội. “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, một khi đã
thoát cảnh nghèo, thay da đổi thịt, ai cấm người ta dọn đến những khu “nhà
giàu” an toàn hơn, bảo đảm hơn cho việc giáo dục con cái cũng như để gia nhập
vào giai cấp trung lưu, thượng lưu của xã hội. Thời nào và ở đâu cũng thế thôi.
Xã hội nào mà chẳng có giàu nghèo. Xã hội nào mà chẳng có bất bình đẳng. Ông trời
ở đâu và thời nào cũng sinh ra những con người có đẹp có xấu, có thông minh có
đần độn, có khỏe mạnh có ốm đau, có giàu sang có nghèo hèn.
Tôi thường có ý nghĩ ấy mỗi
khi đi bách bộ trong những khu nhà giàu, mà chẳng bao giờ cảm thấy thèm muốn, bất
mãn, ganh tỵ và nhứt là thù hận. Vả lại, tôi cũng xác tín rằng những người giàu
có đang sống trong những ngôi nhà sang trọng ấy chưa chắc gì đã có được niềm hạnh
phúc, sự bình an và thanh thản của một người nghèo như tôi là kẻ đang tản bộ
trước nhà họ. Giả như cách đây gần 200 năm, ông tổ của chủ nghĩa Marxit cũng
thường đi lại trước những ngôi nhà giàu và cũng có cùng một suy nghĩ và cảm nhận
như tôi thì chắc chắn trong thế kỷ 20 vừa qua nhân loại đã không phải chịu bao
nhiêu đau thương tang tóc và sang thế kỷ 21 này, một số quốc gia, trong đó có
Việt nam của tôi, không đến nỗi phải tiếp tục quằn quại trong các chế độ độc
tài khát máu.
Đọc lại tiểu sử của Karl Marx,
tôi biết rằng vào khoảng đầu thập niên 50 của thế kỷ 19, vì các họat động chính
trị ông đã phải trốn chạy khỏi Đức, Pháp và Bỉ và được Anh quốc cho tá túc. Đây
là quảng thời gian u ám nhứt trong cuộc đời của ông tổ Marxit. Ông tiến sĩ và
người vợ, vốn là con gái của một nhà quí tộc Đức, phải sống trong một căn hộ tồi
tàn ở London. Một buổi sáng mùa Đông nọ, sau một phiên tuần tra chiếu lệ, một
viên cảnh sát Anh đã ghi lại như sau: “Marx
sống trong một trong những khu tồi tệ, rẻ tiền nhứt ở London. Căn hộ của ông có
hai phòng, phòng nhìn ra ngoài đường là phòng khách và phòng ngủ ở phía sau.
Không có bất cứ một thứ bàn ghế lành lặn nào trong bất cứ phòng nào: tất cả đều
trong tình trạng xiêu quẹo, gẫy đổ, mục nát, dính đầy bụi và cáu bẩn. Giữa
phòng khách có một chiếc bàn được phủ vải dầu. Trên đó có những bản thảo, sách
vở và báo chí cũng như đồ chơi trẻ con nằm la liệt bên cạnh cái rổ may của người
vợ, cộng với ly tách, muỗng nĩa dơ bẩn, những cái điếu cày, tàn thuốc nằm ngổn
ngang trên bàn…Nhưng tất cả những thứ này không hề tạo ra chút bối rối nào cho
Marx hay vợ ông.”
Trong cảnh nghèo nàn cùng cực ấy,
ông tiến sĩ triết học dĩ nhiên cũng tỏ ra lo ngại cho cuộc sống của vợ con. Trong
một lá thư gởi cho người bạn và mạnh thường quân Engels, ông thú nhận rằng “những đêm đầy nước mắt và những chuỗi than
vắn thở dài” của vợ ông đã gần như vượt quá sức chịu đựng của ông. Nhưng mặt
khác, ông lại huênh hoang cho biết mình đang nghiên cứu lịch sử, chính trị,
kinh tế và các vấn đề xã hội để tìm ra giải đáp cho những mọi vấn đề của thế giới.
Và đây là kết quả trước mắt của
cuộc sống đầy ảo tưởng, nếu không nói là vô trách nhiệm của một người cha: năm
1852, đứa con gái nhỏ tên là Francisca của ông qua đời. Hai năm sau đến lượt đứa
con trai nhỏ Edgar và hai năm sau nữa một đứa bé mới sinh cũng qua đời.
Một lá thư còn giữ lại của bà
Marx ghi lại rằng trong khi những đứa con đói meo của ông đang chết dần chết
mòn thì người cha lại suốt ngày đêm “dùi mài kinh sử” trong thư viện. Câu nói để
đời của ông “chỉ có súc vật mới quay lưng
lại với nỗi khổ đau của đồng loại để chỉ chăm sóc cho bộ da riêng của mình” lẽ
ra phải được áp dụng ngay vào hoàn cảnh của chính ông.
Trong quyển tiểu sử viết về
Karl Marx, Otto Ruhle đã nhận xét về ông như sau: “Không có một đồng xu dính túi và ngay cả chiếc áo sơ mi mặc trên người
cũng bị mang đi cầm, vậy mà ông vẫn nhìn vào thế giới với thái độ ngạo nghễ…Suốt
đời, ông luôn sống trong tình trạng cháy túi. Thật là buồn cười, ông không có
khả năng để giải quyết những nhu cầu kinh tế của gia đình và sự bất lực trong
lãnh vực tiền bạc đẩy ông vào hàng loạt “liên tu bất tận” những tai họa và phấn
đấu. Ông luôn sống trong tình trạng nợ nần và không ngừng bị các chủ nợ hối
thúc…Hầu như mọi thứ trong nhà đều nằm ở tiệm cầm đồ”.
Thật chẳng có gì đáng ngạc
nhiên khi một người có cuộc sống như thế đã trút hết mọi sự thù hận của mình
lên những người giàu có hơn mình và đề ra chủ trương thù hận và đấu tranh giai
cấp.
Giả như Karl Marx, thay vì
ngày đêm trốn tránh và vùi đầu trong sách vở và các thứ ảo tưởng, chịu khó dành
những giây phút rảnh rỗi để đi bách bộ với vợ con và suy nghĩ về trách nhiệm “tề
gia” của mình hơn là những vấn đề “bình thiên hạ”, thì có lẽ nhân loại đã chẳng
bao giờ biết thế nào là đấu tranh giai cấp, cách mạng bạo động, cải cách ruộng
đất, đấu tố, cải tạo, đảo lộn mọi bậc thang giá trị, xóa bỏ mọi giá trị đạo đức…
Thực ra, trong cảnh nghèo
cùng, ai cũng có thể trải nghiệm cái tâm trạng của Karl Marx. Mới đây, sau khi
đã bị cấm không cho tham dự đại hội điện ảnh Cannes, Pháp quốc, vì tự nhận mình
là một người theo Đức quốc xã, đạo diễn người Đan mạch, ông Lars Von Trier,
tuyên bố: “Trong mỗi người chúng ta, ai
cũng đều có một chút (máu) Đức quốc xã cũng như vẫn có một chút “Hitler” trong
bản thân. Và tôi nghĩ rằng phủ nhận sự thực này là điều nguy hiểm”. Nhại giọng
của nhà đạo điễn Đan mạch này, tôi cũng không thấy mình đi quá đà khi nói rằng
trong mỗi người chúng ta, ai cũng có chút máu của Karl Marx, và có khá nhiều
cái nhìn về người khác như Karl Marx, nghĩa là cũng có ganh ghét và thù hận, nhứt
là khi thấy người khác hơn mình về một phương diện nào đó. Và đây chính là nỗi
khổ đích thực của chúng ta.
Mỗi buổi sáng Chúa nhựt của mùa
Thu đẹp như tranh, trong khi đi bách bộ trong khu nhà giàu ở North Shore, tôi thường
tập hít thở và thiền niệm để thắng vượt cái tâm vẫn còn đầy sân hận ấy. Ít ra
tôi phải cám ơn “khu nhà giàu” này vì nhờ họ tôi được bắt đầu một tuần mới bằng
những hình ảnh tuyệt đẹp. Nhưng họ phải cám ơn những cây phong vì nhờ chúng mà biệt
thự của họ đẹp hẳn lên. Tôi vẫn thắc mắc không hiểu có phải vì muốn “phân chia
giai cấp” không mà cây phong chỉ thấy nhiều ở thủ đô Canberra và những khu nhà
giàu, còn tràm (gum trees) và các loại cây “native” thì họ lại trồng khắp các
khu nhà nghèo và bình dân như xóm tôi. Thời tiết trong những khu nhà giàu ở
North Shore có khác gì thời tiết của khu nhà nghèo của tôi đâu. Cũng bốn mùa nắng
mưa có cả mà. Vả lại, phong thì xem ra ở trên cái đất Úc này, chỗ nào mà chẳng
sống được. Bằng chứng là sau vườn của tôi có hai cây phong cũng biết thay màu đổi
lá như phong ở khu nhà giàu. Ông Karl Marx mà có đội mồ sống lại thì hẳn ổng sẽ
đòi san bằng mấy hàng cây phong ở khu nhà giàu mất thôi.
Thực ra, nói cho công bằng,
trong cái khu nhà giàu mà tôi thường đi bách bộ mỗi buổi sáng Chúa nhựt mùa Thu,
không chỉ có phong, mà còn có nhiều thứ cây có lá rụng và đổi màu khác. Nhìn từ
xa, cứ tưởng những cây đổi màu đều là phong. Đến gần mới thấy bên cạnh phong
cũng có những loại cây khác cũng “biết” đổi màu, khoe sắc và rơi rụng lả chả xuống
đất. Hơn nữa, nhìn kỹ một chút, tôi mới thấy phong không chỉ có một loại, mà có
đủ mọi loại, với thân và lá đủ mọi kích cỡ và màu sắc. Lạ nữa, hai cây phong
cùng một loại như nhau, nhưng nếu được trồng ở một khoảng cách nào đó để có thể
đón nhận ánh sáng mặt trời ở một góc độ khác nhau, thì lại đổi màu lá không
cùng một lúc.
Phong cùng một loại không thôi
cũng đủ tạo ra một bức tranh mùa Thu đẹp. Phong đủ loại đứng bên nhau lại càng
làm cho bức tranh rực rỡ hơn. Phong chen chúc bên cạnh những loại cây lá rụng
thay mầu khác thì lại làm cho cảnh vật nên thơ bội phần. Nhưng nếu đàng sau
phong và những cây lá rụng mà có những cây tràm hay cây có lá xanh quanh năm
ngày tháng đứng làm “phông” thì dĩ nhiên, bức tranh được xem như hoàn hảo.
Chiêm ngắm bức tranh ấy, tôi
thường nghĩ đến tinh thần khoan nhượng. Cỏ cây dạy cho tôi không biết bao nhiêu
bài học về làm người. Thú vật thường có phản ứng trước cách cư xử của con người.
Một con chó có thể vẫy đuôi để tỏ tình thân thiện hay biết ơn. Một con mèo có
thể biểu lộ nhu cầu muốn được mơn trớn. Nhưng cây cỏ thì tuyệt nhiên vẫn luôn tỏ
“thái độ” bình thản đối với cách cư xử của tôi. Tôi có nguyền rủa, nó vẫn đứng
trơ trơ. Nhưng dù cho tôi có đối xử bạc bẽo đến đâu, nó vẫn tiếp tục làm buồng
phổi để lọc khí cho tôi thở. Và dĩ nhiên, giữa thế giới cỏ cây, lúc nào cũng có
sự sống chung hòa bình. Nhỏ bé và ốm yếu đến đâu, cũng vẫn có thể đứng bên cạnh,
len lỏi hay quấn quít vào cây lớn. Càng to lớn dềnh dàng lại càng là nơi nương
tựa cho những loài cây bé nhỏ. Tựu trung, trong “xã hội” thực vật, mỗi loại, chỉ
cần cắm rễ vào đất, đều có chỗ đứng và cơ hội góp mặt với đời.
Sở dĩ trong xã hội loài người
luôn có xung đột chiến tranh là bởi trong mỗi người đều có một chút máu của hận
thù và đấu tranh giai cấp của Karl Marx và một chút máu bất khoan nhượng của
Hitler.
Dưới tàn cây phong, tôi thấy
mình như đứng dưới một người thày lớn: học bình thản trước mọi hoàn cảnh; tỏa
bóng mát cho đời, cho người bằng sự khoan dung; giúp những người kém may mắn
hơn mình có cơ hội như cây phong cho dây leo nương tựa và nhứt là biết trao ban
những gì tốt đẹp nhứt như hình ảnh chiếc lá đang rơi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét