Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015

Thu Phong


Chu Thập
17.06.11


Khu tôi ở không đến nỗi nghèo nàn xập xệ. Tuy sạch sẽ và có những khu vườn xinh xắn, nhưng đây cũng chỉ là một xóm “bình dân” với lối kiến trúc đơn giản, nhanh gọn du nhập từ Mỹ, chẳng có gì đáng để thu hút sự chú ý: đa số là nhà trệt trần thấp, một mái, ba “gian” phòng rõ rệt. Tiện nghi tối thiểu thì không thiếu, nhưng dĩ nhiên nhà ở xóm tôi được cất lên không phải để được nhìn ngắm, trầm trồ hay se sua mà chỉ đơn thuần là để ở. Cảnh vật cũng không có gì đáng nói. Từ ngoài nhìn vào mọi nhà đều có vẻ sàn sàn “bình đẳng” như nhau.
Chính vì vậy mà mỗi sáng Chúa nhựt, trước khi đến nhà thờ, tôi thích đi bách bộ trên những con đường ở vùng North Shore, Bắc Sydney. Ở đây nhà cửa, biệt thự đẹp và sang trọng. Nhưng điều tôi thích nhứt là có nhiều cây phong (maple) với lá đổi mầu. Ánh bình minh ló dạng thường mang đến không biết bao nhiêu bức tranh để chiêm ngắm. Với niềm xác tín “Bình an trong mỗi bước đi”, những buổi đi dạo trên những con đường trong khu nhà giàu ấy luôn mang lại cho tôi bình an và thanh thản. Quả thực, những ngôi nhà sang trọng là những bức tranh để thưởng lãm.
Càng ngắm nghía những tòa nhà đẹp đẽ này, tôi càng tin chắc rằng người ta không chỉ cất nhà để trú ngụ, mà còn để “khoe” cái nhãn hiệu nhà giàu của mình.  Đành rằng nhà cửa cũng là biểu hiện của sự giàu sang, nhưng điều đó chẳng mảy may có tác động nào đối với tôi. Trong cái nhìn của tôi, những ngôi biệt thự kiểu cọ, sang trọng với những khu vườn hài hòa ấy chỉ là những tác phẩm kiến trúc để mà chiêm ngắm. Nói như thế không có nghĩa là tôi không màng đến những người đang sống trong những ngôi nhà ấy. Những chiếc xe với những nhãn hiệu như Lexus, BMW, Mercedes, Audi…đậu trước những ngôi nhà sang trọng ấy ngầm nói với tôi rằng chủ nhân của những ngôi nhà này thuộc giai cấp giàu sang và trưởng giả. Họ có thể là những người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, được thừa hưởng sản nghiệp của ông bà, cha mẹ để lại. Họ có thể là những người từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp. Họ có thể là những người đã thành công trong việc sách đèn và vươn lên trong các bậc thang xã hội. “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, một khi đã thoát cảnh nghèo, thay da đổi thịt, ai cấm người ta dọn đến những khu “nhà giàu” an toàn hơn, bảo đảm hơn cho việc giáo dục con cái cũng như để gia nhập vào giai cấp trung lưu, thượng lưu của xã hội. Thời nào và ở đâu cũng thế thôi. Xã hội nào mà chẳng có giàu nghèo. Xã hội nào mà chẳng có bất bình đẳng. Ông trời ở đâu và thời nào cũng sinh ra những con người có đẹp có xấu, có thông minh có đần độn, có khỏe mạnh có ốm đau, có giàu sang có nghèo hèn.
Tôi thường có ý nghĩ ấy mỗi khi đi bách bộ trong những khu nhà giàu, mà chẳng bao giờ cảm thấy thèm muốn, bất mãn, ganh tỵ và nhứt là thù hận. Vả lại, tôi cũng xác tín rằng những người giàu có đang sống trong những ngôi nhà sang trọng ấy chưa chắc gì đã có được niềm hạnh phúc, sự bình an và thanh thản của một người nghèo như tôi là kẻ đang tản bộ trước nhà họ. Giả như cách đây gần 200 năm, ông tổ của chủ nghĩa Marxit cũng thường đi lại trước những ngôi nhà giàu và cũng có cùng một suy nghĩ và cảm nhận như tôi thì chắc chắn trong thế kỷ 20 vừa qua nhân loại đã không phải chịu bao nhiêu đau thương tang tóc và sang thế kỷ 21 này, một số quốc gia, trong đó có Việt nam của tôi, không đến nỗi phải tiếp tục quằn quại trong các chế độ độc tài khát máu.
Đọc lại tiểu sử của Karl Marx, tôi biết rằng vào khoảng đầu thập niên 50 của thế kỷ 19, vì các họat động chính trị ông đã phải trốn chạy khỏi Đức, Pháp và Bỉ và được Anh quốc cho tá túc. Đây là quảng thời gian u ám nhứt trong cuộc đời của ông tổ Marxit. Ông tiến sĩ và người vợ, vốn là con gái của một nhà quí tộc Đức, phải sống trong một căn hộ tồi tàn ở London. Một buổi sáng mùa Đông nọ, sau một phiên tuần tra chiếu lệ, một viên cảnh sát Anh đã ghi lại như sau: “Marx sống trong một trong những khu tồi tệ, rẻ tiền nhứt ở London. Căn hộ của ông có hai phòng, phòng nhìn ra ngoài đường là phòng khách và phòng ngủ ở phía sau. Không có bất cứ một thứ bàn ghế lành lặn nào trong bất cứ phòng nào: tất cả đều trong tình trạng xiêu quẹo, gẫy đổ, mục nát, dính đầy bụi và cáu bẩn. Giữa phòng khách có một chiếc bàn được phủ vải dầu. Trên đó có những bản thảo, sách vở và báo chí cũng như đồ chơi trẻ con nằm la liệt bên cạnh cái rổ may của người vợ, cộng với ly tách, muỗng nĩa dơ bẩn, những cái điếu cày, tàn thuốc nằm ngổn ngang trên bàn…Nhưng tất cả những thứ này không hề tạo ra chút bối rối nào cho Marx hay vợ ông.”
Trong cảnh nghèo nàn cùng cực ấy, ông tiến sĩ triết học dĩ nhiên cũng tỏ ra lo ngại cho cuộc sống của vợ con. Trong một lá thư gởi cho người bạn và mạnh thường quân Engels, ông thú nhận rằng “những đêm đầy nước mắt và những chuỗi than vắn thở dài” của vợ ông đã gần như vượt quá sức chịu đựng của ông. Nhưng mặt khác, ông lại huênh hoang cho biết mình đang nghiên cứu lịch sử, chính trị, kinh tế và các vấn đề xã hội để tìm ra giải đáp cho những mọi vấn đề của thế giới.
Và đây là kết quả trước mắt của cuộc sống đầy ảo tưởng, nếu không nói là vô trách nhiệm của một người cha: năm 1852, đứa con gái nhỏ tên là Francisca của ông qua đời. Hai năm sau đến lượt đứa con trai nhỏ Edgar và hai năm sau nữa một đứa bé mới sinh cũng qua đời.
Một lá thư còn giữ lại của bà Marx ghi lại rằng trong khi những đứa con đói meo của ông đang chết dần chết mòn thì người cha lại suốt ngày đêm “dùi mài kinh sử” trong thư viện. Câu nói để đời của ông “chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi khổ đau của đồng loại để chỉ chăm sóc cho bộ da riêng của mình” lẽ ra phải được áp dụng ngay vào hoàn cảnh của chính ông.
Trong quyển tiểu sử viết về Karl Marx, Otto Ruhle đã nhận xét về ông như sau: “Không có một đồng xu dính túi và ngay cả chiếc áo sơ mi mặc trên người cũng bị mang đi cầm, vậy mà ông vẫn nhìn vào thế giới với thái độ ngạo nghễ…Suốt đời, ông luôn sống trong tình trạng cháy túi. Thật là buồn cười, ông không có khả năng để giải quyết những nhu cầu kinh tế của gia đình và sự bất lực trong lãnh vực tiền bạc đẩy ông vào hàng loạt “liên tu bất tận” những tai họa và phấn đấu. Ông luôn sống trong tình trạng nợ nần và không ngừng bị các chủ nợ hối thúc…Hầu như mọi thứ trong nhà đều nằm ở tiệm cầm đồ”.
Thật chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một người có cuộc sống như thế đã trút hết mọi sự thù hận của mình lên những người giàu có hơn mình và đề ra chủ trương thù hận và đấu tranh giai cấp.
Giả như Karl Marx, thay vì ngày đêm trốn tránh và vùi đầu trong sách vở và các thứ ảo tưởng, chịu khó dành những giây phút rảnh rỗi để đi bách bộ với vợ con và suy nghĩ về trách nhiệm “tề gia” của mình hơn là những vấn đề “bình thiên hạ”, thì có lẽ nhân loại đã chẳng bao giờ biết thế nào là đấu tranh giai cấp, cách mạng bạo động, cải cách ruộng đất, đấu tố, cải tạo, đảo lộn mọi bậc thang giá trị, xóa bỏ mọi giá trị đạo đức…
Thực ra, trong cảnh nghèo cùng, ai cũng có thể trải nghiệm cái tâm trạng của Karl Marx. Mới đây, sau khi đã bị cấm không cho tham dự đại hội điện ảnh Cannes, Pháp quốc, vì tự nhận mình là một người theo Đức quốc xã, đạo diễn người Đan mạch, ông Lars Von Trier, tuyên bố: “Trong mỗi người chúng ta, ai cũng đều có một chút (máu) Đức quốc xã cũng như vẫn có một chút “Hitler” trong bản thân. Và tôi nghĩ rằng phủ nhận sự thực này là điều nguy hiểm”. Nhại giọng của nhà đạo điễn Đan mạch này, tôi cũng không thấy mình đi quá đà khi nói rằng trong mỗi người chúng ta, ai cũng có chút máu của Karl Marx, và có khá nhiều cái nhìn về người khác như Karl Marx, nghĩa là cũng có ganh ghét và thù hận, nhứt là khi thấy người khác hơn mình về một phương diện nào đó. Và đây chính là nỗi khổ đích thực của chúng ta.
Mỗi buổi sáng Chúa nhựt của mùa Thu đẹp như tranh, trong khi đi bách bộ trong khu nhà giàu ở North Shore, tôi thường tập hít thở và thiền niệm để thắng vượt cái tâm vẫn còn đầy sân hận ấy. Ít ra tôi phải cám ơn “khu nhà giàu” này vì nhờ họ tôi được bắt đầu một tuần mới bằng những hình ảnh tuyệt đẹp. Nhưng họ phải cám ơn những cây phong vì nhờ chúng mà biệt thự của họ đẹp hẳn lên. Tôi vẫn thắc mắc không hiểu có phải vì muốn “phân chia giai cấp” không mà cây phong chỉ thấy nhiều ở thủ đô Canberra và những khu nhà giàu, còn tràm (gum trees) và các loại cây “native” thì họ lại trồng khắp các khu nhà nghèo và bình dân như xóm tôi. Thời tiết trong những khu nhà giàu ở North Shore có khác gì thời tiết của khu nhà nghèo của tôi đâu. Cũng bốn mùa nắng mưa có cả mà. Vả lại, phong thì xem ra ở trên cái đất Úc này, chỗ nào mà chẳng sống được. Bằng chứng là sau vườn của tôi có hai cây phong cũng biết thay màu đổi lá như phong ở khu nhà giàu. Ông Karl Marx mà có đội mồ sống lại thì hẳn ổng sẽ đòi san bằng mấy hàng cây phong ở khu nhà giàu mất thôi.
Thực ra, nói cho công bằng, trong cái khu nhà giàu mà tôi thường đi bách bộ mỗi buổi sáng Chúa nhựt mùa Thu, không chỉ có phong, mà còn có nhiều thứ cây có lá rụng và đổi màu khác. Nhìn từ xa, cứ tưởng những cây đổi màu đều là phong. Đến gần mới thấy bên cạnh phong cũng có những loại cây khác cũng “biết” đổi màu, khoe sắc và rơi rụng lả chả xuống đất. Hơn nữa, nhìn kỹ một chút, tôi mới thấy phong không chỉ có một loại, mà có đủ mọi loại, với thân và lá đủ mọi kích cỡ và màu sắc. Lạ nữa, hai cây phong cùng một loại như nhau, nhưng nếu được trồng ở một khoảng cách nào đó để có thể đón nhận ánh sáng mặt trời ở một góc độ khác nhau, thì lại đổi màu lá không cùng một lúc.
Phong cùng một loại không thôi cũng đủ tạo ra một bức tranh mùa Thu đẹp. Phong đủ loại đứng bên nhau lại càng làm cho bức tranh rực rỡ hơn. Phong chen chúc bên cạnh những loại cây lá rụng thay mầu khác thì lại làm cho cảnh vật nên thơ bội phần. Nhưng nếu đàng sau phong và những cây lá rụng mà có những cây tràm hay cây có lá xanh quanh năm ngày tháng đứng làm “phông” thì dĩ nhiên, bức tranh được xem như hoàn hảo.
Chiêm ngắm bức tranh ấy, tôi thường nghĩ đến tinh thần khoan nhượng. Cỏ cây dạy cho tôi không biết bao nhiêu bài học về làm người. Thú vật thường có phản ứng trước cách cư xử của con người. Một con chó có thể vẫy đuôi để tỏ tình thân thiện hay biết ơn. Một con mèo có thể biểu lộ nhu cầu muốn được mơn trớn. Nhưng cây cỏ thì tuyệt nhiên vẫn luôn tỏ “thái độ” bình thản đối với cách cư xử của tôi. Tôi có nguyền rủa, nó vẫn đứng trơ trơ. Nhưng dù cho tôi có đối xử bạc bẽo đến đâu, nó vẫn tiếp tục làm buồng phổi để lọc khí cho tôi thở. Và dĩ nhiên, giữa thế giới cỏ cây, lúc nào cũng có sự sống chung hòa bình. Nhỏ bé và ốm yếu đến đâu, cũng vẫn có thể đứng bên cạnh, len lỏi hay quấn quít vào cây lớn. Càng to lớn dềnh dàng lại càng là nơi nương tựa cho những loài cây bé nhỏ. Tựu trung, trong “xã hội” thực vật, mỗi loại, chỉ cần cắm rễ vào đất, đều có chỗ đứng và cơ hội góp mặt với đời.
Sở dĩ trong xã hội loài người luôn có xung đột chiến tranh là bởi trong mỗi người đều có một chút máu của hận thù và đấu tranh giai cấp của Karl Marx và một chút máu bất khoan nhượng của Hitler.
Dưới tàn cây phong, tôi thấy mình như đứng dưới một người thày lớn: học bình thản trước mọi hoàn cảnh; tỏa bóng mát cho đời, cho người bằng sự khoan dung; giúp những người kém may mắn hơn mình có cơ hội như cây phong cho dây leo nương tựa và nhứt là biết trao ban những gì tốt đẹp nhứt như hình ảnh chiếc lá đang rơi.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét