Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Tôi là ai...

 

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2025

Sự vĩ đại đích thực

 

                               


                                                                                                 

 

Năm 1995, nhân dịp tưởng niệm 20 năm biến cố 30 tháng Tư, nhạc sĩ du ca Phan Văn Hưng có sáng tác một ca khúc mang tựa đề “20 năm”. 20 năm là một giai đoạn khá dài trong một đời người. Mới đó mà “đàn trẻ thơ nay đã lớn và chàng trai nay đã già”. Nhưng người nhạc sĩ dường như muốn nói với chúng ta rằng thời gian như ngừng trôi. Cuộc sống xem ra vẫn dậm chân tại chỗ kể từ sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975. Bởi lẽ “Hai mươi năm (rồi mà vẫn còn) người cụt chân trên hè phố. Kẻ quyền uy trong căn nhà, người nằm rên trong hộ xá”. Vẫn còn cái cảnh “nhiều kẻ gian trong làng xóm, người hiền khô mang gông cùm, kẻ mộng du lên bạo chúa, người ngồi khóc trên sân chùa”. Hay “triệu người đi trong cuộc sống, mà thể xác như không hồn. Triệu người vui trong xa hoa. Triệu người lao trong cùng khốn và buồn vui như bao lần”.

Nay sắp đến kỷ niệm 50 năm biến cố 30 tháng Tư. Nếu nhạc sĩ Phan Văn Hưng sửa lại câu mở đầu thành: “Năm mươi năm, đàn trẻ thơ nay đã là ông là bà” thì bức tranh vẫn còn nguyên như cũ.

Với tôi, 50 năm cũng vẫn là một cơn ác mộng dài. Cái chế độ mà tôi đã trốn chạy cách nay hơn 40 năm dù có thay da đổi thịt, cái chủ nghĩa vô nhân đạo được áp đặt lên dân tộc tôi dù có bị chôn vùi trong đống rác của lịch sử, những người vẫn tiếp tục vỗ ngực tự xưng là “cộng sản” dù chẳng còn tin hay biết gì về chủ nghĩa ấy...tất cả vẫn đều như cũ! Cái linh hồn của chế độ đó là dối trá, tham tàn, độc ác vẫn còn nguyên vẹn! Và tôi, một người tỵ nạn cộng sản, vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn. Tôi xem hơn năm năm sống dưới chế độ cộng sản và nhứt là cuộc vượt biên đem cuộc sống ra cá cược để đổi lấy hai chữ tự do như một thứ vốn quý giá nhứt trong cuộc đời.

Tôi đã chọn Úc Đại Lợi làm quê hương thứ hai và hình như quê hương thứ hai này lúc nào cũng nhắc nhở tôi về tư cách tỵ nạn của tôi. Thật vậy, trong câu chuyện trao đổi với tôi, hầu như người dân Úc nào, dù thuộc sắc tộc, văn hóa hay tôn giáo nào, cũng đều có lúc hỏi tôi: gốc gác của ông người nước nào? Và dĩ nhiên tôi được dịp lên giọng “sáu câu” về địa lý, về lịch sử của đất nước tôi và nhứt là hãnh diện “tuyên xưng” rằng tôi đã từng là một “thuyền nhân” và vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản.

Tôi có nghe nói đến sự độc ác của những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng bên Trung Hoa hay Nero của Đế quốc La Mã. Tôi không thể hình dung được sự độc ác của những bạo chúa ấy. Nhưng sự tàn bạo dã man ngoài sức tưởng tượng của tôi mà Đức quốc xã và bạo chúa Adolf Hitler đã để lại trong lịch sử nhân loại thì tôi tin như kinh “tin kính” trong nhà đạo của tôi. Bởi lẽ vô số những nạn nhân đã từng sống sót trở về từ những trại tập trung hay lò sát sinh mà Hitler đã cho dựng lên khắp Âu châu đã là những nhân chứng sống động về sự độc ác ấy.

Chỉ có những con người không có trái tim mới chối bỏ điều đó. Tôi không thể tưởng tượng được người giàu có nhứt hành tinh hiện nay là Elon Musk đã có thể ngang nhiên chối bỏ tội ác của Hitler. Ông khẳng định rằng Hitler không hề giết 6 triệu người Do Thái. Không riêng Hitler, mà ngay cả những bạo chúa của các chế độ cộng sản như Stalin và Mao Trạch Đông cũng đều được Musk “xá giải” hết. Mọi tội ác đều được trút lên đầu các cộng sự viên của các bạo chúa này (1).

Đã có vô số những nạn nhân sống sót từ các trại tập trung của Đức quốc xã đã làm chứng về tội ác của Hitler. Và dĩ nhiên cũng  đã và đang có vô số những nạn nhân của các chế độ cộng sản làm chứng về tội ác của cộng sản. Tôi hãnh diện được mãi mãi làm một chứng nhân như thế. Hitler đã chết. Đức Quốc xã cũng đã chết. Nhưng chế độ cộng sản mà tôi đã trốn thoát vẫn còn đó. Tôi muốn được mãi mãi làm một người tỵ nạn để làm chứng về tội ác của chế độ đó. Nhưng chứng từ của tôi trước tiên phải là một bài học nhớ đời cho chính bản thân tôi. Người ta thường gán cho triết gia, thi sĩ Tây Ban Nha, ông George Santayana (1863-1952) câu nói: “Những ai quên lịch sử sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật ra câu nói đúng của ông là “những ai không thể nhớ quá khứ sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật thế, có biết bao nhiêu người, trong đó có rất nhiều người Việt Nam đã từng sống dưới chế độ cộng sản, đã từng vượt biên và được Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc nhìn nhận như một người tỵ nạn, nay “qua cầu rút ván”,  quay lưng lại quá khứ để tôn thờ những lãnh tụ sặc mùi kỳ thị, miệt thị và khước từ những người đồng loại đang lâm vào cùng một cảnh ngộ như mình trước kia.

Tôi tự nhủ sẽ mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản để không bao giờ quên quá khứ và như thế để không ngừng chiến đấu chống lại trong chính bản thân tôi những khuynh hướng thấp hèn nhứt trong con người là dối trá, kỳ thị, hận thù, tham tàn và độc ác.

Sắp bước vào tuổi bát tuần, tôi cảm thấy như bị bỏ lại đàng sau trong đà tiến nhanh đến chóng mặt của thế giới ngày nay. Trong phần mở đầu của biên khảo có tựa đề “Homo Deus: A brief History of Tomorrow” (Tạm dịch: Con người sẽ trở thành Thượng Đế: một lịch sử ngắn của ngày mai), sử gia Yuval Noah Harari đã nói đến hai bước tiến bộ vượt bực của nhân loại: một là chiến thắng trên sự chết, hai là loại trừ được chiến tranh! Theo ông, y khoa đang tiến tới một giai đoạn chắc chắn trong đó tất cả các cơ phận con người đều có thể “tái sinh” để giúp con người có thể sống mãi. Dĩ nhiên, con người không trở thành bất tử (immortal), bởi vì tai nạn hay ý muốn chết vẫn có thể cướp đi mạng sống con người, nhưng sống mãi (amortal) là điều nằm trong khả năng của con người. Về chiến tranh, ông cho rằng thế giới sẽ không bao giờ có thế chiến thứ ba nữa. Mặc cho Bắc Hàn có điên khùng đến đâu, mặc cho Nga có nhiều lần mang vũ khí hạt nhân ra hù dọa, ai cũng biết rằng mó tay vào thứ vũ khí này, cả thế giới đều ra tro.

Về những tiến bộ vượt bực của thế giới ngày nay, tỷ phú Bill Gates, đồng sáng lập viên của công ty Microsoft mới đây đã tiên báo rằng chỉ trong 10 năm nữa, trí khôn nhân tạo (AI) sẽ thay thế con người trong hầu hết mọi sự. Cụ thể, sẽ đến lúc thế giới sẽ chẳng cần bác sĩ và thày giáo nữa, bởi vì trí khôn nhân tạo sẽ làm việc trong lãnh vực y tế và giáo dục một cách hiệu quả hơn (2).

Tôi không biết mình có sống tới ngày đó để tận mắt nhìn thấy những tiến bộ như thế không. Tôi chỉ biết chắc có một điều: trí khôn nhân tạo đã mở tung hộp Pandora ra và loài sâu bọ khủng khiếp nhứt trong trái tim con người là sự dối trá hiện đang lan tràn khắp thế giới. Có lẽ chưa bao giờ con người dễ nói dối, dễ tin những lời dối trá và cũng dễ phát tán những lời dối trá cho bằng ngày nay.

Trong các chế độ độc tài, mọi lối dẫn vào sự thật đều bị bưng bít. Người dân trong các chế độ đó chỉ nhận được thông tin một chiều cho nên không thể kiểm chứng được những gì họ nghe. Cách đây 2 năm, khi về thăm nhà, tôi nhận thấy cuộc sống của những người bà con thân thuộc của tôi có phần khá giả hơn trước kia nhiều. Nhiều người đã xây nhà mới. Có người cũng có xe hơi. Còn những phương tiện truyền thông như Iphone, Smartphone...thì quả thật “chạy đầy đường”. Và điều khiến tôi lo ngại nhứt là khi cầm những phương tiện đó trên tay và chúi mũi vào đó hầu như từng phút từng giây, ai cũng nghĩ rằng mình thông biết mọi sự trên đời. Nhưng hầu như mọi thứ “thông tin” mà họ nhận được và hăng say quảng bá đều là những tin giả và thuyết âm mưu. Tác động của trí khôn nhân tạo, mà cụ thể là qua các mạng lưới thông tin toàn cầu có lẽ một phần đã củng cố cho các chế độ độc tài và một cách nào đó tạo điều kiện cho tin giả, các thuyết âm mưu và sự dối trá đầu độc người dân trong các chế độ độc tài.

Nhưng con sâu dối trá mà hộp Pandora đã tung ra khắp mặt đất không chỉ đục khoét đầu óc của người dân trong các chế độ độc tài. Trong một quốc gia dân chủ và văn minh nhứt thế giới như Hoa Kỳ, con sâu dối trá hiện đang phá nát đất nước này và làm đảo điên khắp thế giới.

Kể từ khi ông Donald Trump xuất hiện trong chính trường Mỹ, nghe những gì ông nói, nhứt là khi nổ ra đại dịch Covid-19 và những phát biểu của ông về địa lý và chính trị thế giới, những cộng tác viên thân cận nhứt của ông trong nhiệm kỳ đầu thường hay dùng từ “đần độn” (moron) để nói về sự hiểu biết và trí thông minh của ông. Một tờ báo bảo thủ như The Wall Street Journal, trong bài xã luận viết về cuộc chiến thuế quan của ông, cũng đã gọi đây là “cuộc chiến thương mại ngu xuẩn nhứt trong lịch sử”(3). Tôi vẫn thử cố gắng “làm trạng sư của quỷ” để bênh vực cho những chính sách và đường lối của ông: Là “con nhà trời”, là “thiên sứ” được Thượng Đế sai đến cho nên cũng như Thượng Đế, ông có lối suy nghĩ, cách tính toán và những chính sách “cao siêu” mà trí khôn của một người phàm như tôi không thể nào hiểu thấu được. Một số bạn bè của tôi ở Úc này, vốn là những người tôn thờ ông, đã khuyên tôi phải kiên nhẫn chờ đợi 4 năm nữa mới thấy được kết quả của những chính sách của ông. Tôi đang tập kiên nhẫn để tạm tin như thế. Chỉ có điều tôn thờ ông thì không, dù ông có là ông trời con đi nữa. Làm sao tôi có thể sùng bái hay suy tôn một người có một nhân cách tồi tệ như ông. Mà tồi tệ nhứt trong nhân cách đó chính là sự lọc lừa dối trá. Theo sự kiểm chứng của báo The Washington Post, trong 4 năm nhiệm kỳ đầu của ông, ông đã nói dối hơn 30 ngàn lần, nghĩa là trung bình mỗi ngày ông nói dối hơn 50 lần. Không cần phải kiểm chứng, bất cứ ai còn biết tôn trọng lẽ phải và có chút lương tri cũng đều nhìn thấy việc phủ nhận kết quả bầu cử và xúi dục bạo loạn hồi năm 2020 là một lời dối trá mà chỉ có một tên lưu manh như ông mới có đủ trơ trẽn để làm. Rồi mới đây, mặc cho đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã lên án hành động xâm lược Ukraine của Nga, ông đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết, nghĩa là chối bỏ sự thật và bênh vực hành động tàn ác của Nga. Đó là chưa kể việc ông lật lọng đến độ lên án Ukraine là nước gây ra chiến tranh và gọi nguyên thủ của nước này là một nhà độc tài.

Người dân Mỹ đã bầu một tên dối trá như thế lên làm tổng thống. Sự dối trá đã trở thành chuẩn mực cho cuộc sống và cứu cánh biện minh cho phương tiện là phương châm hành động. Không cần biết Donald Trump có dối trá và nhân cách có tồi tệ đến đâu miễn là ông “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.

Cứ mỗi lần nghe hai chữ “vĩ đại”, tôi lại nhớ đến một người bạn dạy Anh văn trung học đệ nhị cấp trước năm 1975. Sau 30 tháng Tư, anh được lưu dụng một thời gian. Anh kể lại: trong một giờ học, anh hỏi các em học sinh phải dịch hai chữ “vĩ đại” như thế nào sang Anh ngữ. Một em đã hớn hở nói lớn: “Thưa thày, vĩ đại dịch sang tiếng Anh là “enormous”. Anh bảo: anh phá lên cười và nghĩ bụng, nếu áp dụng từ Anh ngữ này cho con người đang được suy tôn là “vĩ đại” thì thật là “khủng khiếp”.

Nghĩ đến hai chữ “vĩ đại”, tôi cũng  liên tưởng đến một đoạn trong phim “Chuyện tử tế” được đạo diễn Trần văn Thủy thực hiện năm 1985. Nhà làm phim có hỏi một đám trẻ con nghĩ gì về hai chữ “vĩ đại”. Một em nói: “vĩ đại” thì chúng cháu có nghe nói, nhưng chưa từng thấy.

Thật vậy, sự vĩ đại đích thực không nằm trong sức mạnh kinh tế hay quân sự, mà chỉ được nhìn thấy trong tâm hồn hay tư cách của một con người. Văn hào Victor Hugo, người đã đề cao sự nhẫn nhục hy sinh và thương người của người gù Quasimodo trong quyển tiểu thuyết “Người gù nhà thờ Đức Bà Paris”, đã nói: “Có một quang cảnh vĩ đại hơn đại dương, đó là bầu trời. Có một quang cảnh vĩ đại hơn bầu trời, đó là tâm hồn con người” Điều này hoàn toàn đúng với danh hiệu “Mahatma” (vĩ đại) mà người dân Ấn Độ đã truy tặng cho Gandhi, người đã giành được độc lập cho Ấn Độ mà không cần một vũ khí nào khác hơn là chủ trương “Satyàgraha” nghĩa là “kiên trì trong sự thật”. Quả thật, như Chúa Giêsu đã dạy “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người”. Trong thế giới đang đảo điên vì dối trá, có lẽ chỉ có những ai dám sống chết và lên tiếng cho sự thật, người đó mới thật sự được giải phóng và trở thành  “vĩ đại”.

Chu Văn Tháng Tư 2025

 

Chú thích

1.Jordan Liles ,Fach Check: Musk reposted post that said “Stalin, Mao and Hiler didn’t murder millions of people Yahoo news  March 15, 2025

2.Ariel Zilbar, Bill Gates: AI replace major jobs within 10 years, humans won’t be needed “for most things” New York Post March 29, 2025

3.Edward Helmore, Wall Street Journal editorial calls Trump tariffs “dumbest trade war in history” 3 Feb 2025

 

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

Tương lai thuộc về lòng nhân ái


                    


                                                                  Chu Văn

Trong bài diễn văn nhậm chức hôm 20 tháng Giêng vừa qua, Tổng thống Donald Trump tuyên bố rằng ngày hôm đó  là “Ngày Giải Phóng”. Một ký giả người Việt tại California nói rằng hai chữ “giải phóng” nghe “quen quen”. Người Việt Nam nào đã từng chứng kiến ngày Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản Miền Bắc và sống dưới chế độ cộng sản dù chỉ vài ngày thôi cũng đều thấm thía hiểu được thế nào là “giải phóng”.

Riêng tôi, khi đọc lại bài diễn văn của Tổng thống Trump, tôi đặc biệt chú ý đến “phép lạ” ông thoát khỏi một cuộc mưu sát. Ông nói: “Trên cánh đồng xinh đẹp ở Pennsylvania vài tháng trước, viên đạn của một sát thủ đã xuyên qua tai tôi. Nhưng ngay cả khi đó và bây giờ, tôi đều tin rằng mình đã thoát chết là có lý do. Chúa đã cứu tôi để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Lời tuyên bố này, tôi cũng nghe “quen quen”. Cách đây hơn 90 năm, Adolf Hitler cũng đã từng tuyên xưng một niềm tin như thế vào Chúa.

Ngày 30 tháng Giêng năm 1933, Tổng thống Đức Paul von Hinderburg đã chọn lãnh tụ của Đảng Quốc xã là Adolf Hitler làm thủ tướng. Không đầy một tháng sau đó, không rõ do nguyên nhân nào, tòa nhà Quốc Hội bị cháy. Hitler đã nhân cơ hội này thuyết phục Tổng thống Hindenburg ban hành Sắc lệnh Bảo vệ Người dân và Quốc gia. “Sắc lệnh này xóa bỏ các quyền tự do cơ bản, bao gồm tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí. Nó cũng cho phép chính phủ giam giữ bất kỳ ai mà không cần xét xử”(1). Một tháng sau đó, dưới quyền kiểm soát của Hitler, quốc hội bù nhìn đã thông qua một đạo luật cho phép Hitler ban hành bất cứ luật nào mà không cần sự chuẩn thuận của Hạ Viện. Hitler đã thu tóm mọi quyền lực trong tay và nước Đức đã hoàn toàn nằm dưới chế độ độc tài. Chuyện gì đã xảy ra sau đó, ký ức tập thể của nhân loại sẽ không bao giờ phai mờ. Nếu cần đặt tên cho cái Ác, có lẽ không có tên gọi nào chính xác hơn là Adolf Hitler!

Năm năm sau khi nắm quyền sinh sát trong tay, tức năm 1938, Hitler đã đưa quân sang chiếm Áo Quốc và sát nhập vào Đế chế Đức. Người con của Áo Quốc đã huênh hoang trở về thăm quê cha đất tổ. Trong một bài diễn văn đọc tại Thủ đô Vienna, là một tín đồ công giáo, Hitler đã nói đến bàn tay “Quan Phòng” của Chúa trong sự nghiệp chính trị của ông như sau: “Tôi tin rằng chính Chúa đã muốn gởi một người con (của Áo Quốc) qua Đế chế Đức, để nó lớn lên và cất nhắc nó thành nhà  lãnh đạo quốc gia và đưa quê hương trở lại với Đế chế”(2).

Tháng Mười Một năm 1939, Hitler đến thăm câu lạc bộ bia Burgerbraukeller, trong Thành phố Munich. Đây là nơi mà năm 1925 Hitler đã loan báo thành lập Đức Quốc Xã. Trong chuyến viếng thăm nói trên, ông đã thoát khỏi một cuộc mưu sát trong đường tơ kẽ tóc. Hãy nghe người được Chúa “tuyển chọn” một lần nữa xác quyết về bàn tay “Quan phòng” của Chúa trong cuộc mưu sát này: “Giờ đây tôi hoàn toàn tin tưởng. Sự kiện tôi rời khỏi Burgerbraukeller sớm hơn thường lệ đã củng cố niềm tin (của tôi) về ý định của Chúa Quan Phòng muốn tôi đạt được mục đích của tôi” (3).

Mục đích của Hitler là gì?  Ngoài tham vọng muốn làm bá chủ Âu Châu và ngay cả thế giới, “mục đích” của Hitler chính là tiêu diệt người Do Thái. Ngay từ năm 1923, ông đã khẳng định: “Điều đầu tiên phải làm là cứu nước Đức khỏi tay người Do Thái là những kẻ đang cai trị đất nước chúng ta...Chúng tôi không muốn để cho nước Đức phải chịu chết trên thập giá như Đấng Kia (tức Đức Giêsu)”(4). Theo đúng truyền thống Kitô giáo, cách riêng Công giáo vào thời đó, Hitler thù ghét người Do Thái vì xem họ như những kẻ “giết Chúa”. Mãi cho đến cuối năm 1941, nghĩa là sau khi đề ra điều thường được gọi là “Giải pháp cuối cùng”, tức chương trình tiêu diệt 6 triệu người Do Thái tại 21 quốc gia ở Âu Châu, Hitler vẫn còn tâm sự với người phụ tá thân cận của mình là tướng Gerhard Engel: “Tôi vẫn mãi mãi là một người công giáo” (5). Không những Hitler tự nhận mình là một người công giáo, mà rất nhiều người công giáo Đức cũng tin tưởng rằng ông là một người công giáo thuần thành. Ngay cả Hồng y Michael Faulhaber, Tổng giám mục Munich, sau cuộc mưu sát Hitler tại Burgerbraukeller, cũng đã cho tập họp giáo dân lại trong nhà thờ chính tòa của giáo phận để hát bài ca Te Deum (tạ ơn Chúa) vì đã che chở lãnh tụ kính yêu của Đức!

Sáu triệu người Do Thái đã bị bàn sát một cách dã man trong các trại tập trung và lò sát sinh trên khắp Âu Châu. Hitler, dù có độc ác đến đâu, cũng không có đủ năm đầu sáu tay để phạm một tội ác khủng khiếp như thế. Đã có vô số người Đức đã tích cực tham gia vào tội ác hoặc thinh lặng đồng lõa trước tội ác. Tất cả đều bị cuốn hút vào một trào lưu chung là bài Do Thái mà thiết yếu vẫn là “niềm tin tôn giáo” theo đó người Do Thái là “bọn giết Chúa” đáng bị thù ghét và tiêu diệt. Không chỉ người công giáo mà ngay cả nhà Cải Cách Tin Lành Martin Luther cũng đã từng viết một quyển sách trong đó ông gọi người Do Thái là “loài rắn lục” cần phải bị loại trừ ra khỏi nước Đức. Có thể Hitler đã lợi dụng trào lưu bài Do Thái ấy để phạm tội ác. Nhưng căn cứ trên những lời tuyên bố và “tuyên xưng” của ông có lẽ không ngoa để bảo rằng ông đã nhân danh Kitô giáo để phạm tội ác!

Sở dĩ tôi liên tưởng đến Hitler khi nghe Tổng thống Trump khẳng định “Chúa đã cứu tôi để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” là bởi vì có lẽ hơn bất cứ vị tổng thống Mỹ nào khác, ông không ngừng “tuyên xưng” niềm tin tôn giáo và cam kết “tranh đấu” để “bảo vệ” Kitô giáo tại Mỹ. Trong cuộc tranh cử tổng thống suốt năm 2024 vừa qua, ông luôn luôn hứa sẽ đưa các tín hữu Kitô Mỹ trở lại nắm quyền chính trị.  Dạo tháng Hai năm vừa qua, trong một phòng chật ních các phóng viên và ký giả đặc trách về tin tức tôn giáo, ông hứa: “Nếu tôi trở lại (Tòa Bạch Ốc), quý vị sẽ sử dụng quyền lực chưa bao giờ có trước đó. Với sự giúp đỡ và ơn Chúa, cuộc canh tân của nước Mỹ sẽ bắt đầu vào ngày mùng Năm tháng Mười Một”. Trong nhiều cuộc vận động khác nhau, ông cam kết sẽ để cho các nhà lãnh đạo Kitô giáo có một đường giây “trực tiếp với Tòa Bạch Ộc và với ông” đồng thời  sẽ thành lập một ủy ban đặc nhiệm để “chấm dứt việc vũ khí hóa chính phủ chống lại các tín hữu Kitô” (6).

Donald Trump có phải là một tín hữu Kitô thuần thành  quyết tâm tranh đấu để “bảo vệ” Kitô giáo không? Một trong những chức sắc công giáo hàng đầu của Giáo hội Công giáo tại Mỹ là Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục New York, người luôn “sát cánh” với ông, tin rằng tổng thống Trump là “người xem trọng niềm tin Kitô giáo của mình” (7). Nhưng đâu là “niềm tin Kitô giáo” được ông Trump “xem trọng”? Có lẽ cả nước Mỹ sẽ không bao giờ quên bức hình chụp ông đứng trước cửa một nhà thờ gần Tòa Bạch Ốc, trên tay “cầm ngược” Quyển Kinh Thánh. Vô tình hay hữu ý, không ai biết. Nhưng bức ảnh này có lẽ nói lên “thứ Kitô giáo” của riêng ông, được ông không ngừng “rao giảng”. Thật vậy, khi ra tranh cử tổng thống lần đầu tiên năm 2016, trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh, khi được hỏi câu nào hay câu chuyện nào trong Kinh Thánh ông ưa thích nhứt, ông trích câu “mắt đền mắt răng thế răng” (8). Đúng là Kinh Thánh “cầm ngược”! Đúng là “niềm tin Kitô giáo” của riêng Donald Trump! Và ông đã “xem trọng” một “niềm tin Kitô giáo” của riêng ông như thế trong suốt nhiệm kỳ đầu của ông và nhứt là trong suốt mấy tuần lễ đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai này. Suốt trong 8 năm qua và cho đến nay, bên cạnh những lời láo khoét và dối trá, những lời ông nói ra toàn sặc mùi thù hận và hàng trăm sắc lệnh hành pháp ông đưa ra hầu hết đều qui về sự trả thù.

Nếu Chúa Giêsu trở lại và lắng nghe những lời “rao giảng” của Donald Trump về Kitô giáo, liệu Ngài có còn nhận ra Tin Mừng của Ngài không? Liệu 80 phần trăm các tín hữu Tin Lành và hơn 50 phần trăm người công giáo Mỹ đã dồn phiếu cho ông Trump trong các cuộc bầu cử vừa qua có nhận ra được Tin Mừng của Chúa Giêsu trong những hành động và những lời “rao giảng” của ông Trump không?

Càng gần đất xa trời, tôi không ngừng “về thu xếp lại” mọi sự trong cuộc sống. Ngay cả trong niềm tin tôn giáo, tôi cũng muốn “về thu xếp lại” cho gọn gàng hơn. Có thể tôi chẳng còn tin có một Thiên Chúa nếu Ngài chọn riêng một dân tộc, ra lệnh tiêu diệt những dân tộc khác, bách hại tín đồ của những tôn giáo khác và như vậy gieo rắc hận thù trong lòng người...Nhưng tôi tin chắc rằng tôi chỉ có thể thực sự sống niềm tin Kitô giáo của tôi nếu tôi cố gắng thực thi lời rao giảng của Chúa Giêsu (Matthew 25, 31-46) như được nữ Giám mục Mariann Budde quảng diễn trong bài giảng đọc trước Tổng thống Trump tại nhà thờ Chính tòa quốc gia ở Washington, một ngày sau khi ông nhậm chức. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu chẳng hỏi tôi “có đạo” không, có thuộc Giáo hội nào không, có đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhựt không, có thuộc và tuyên xưng Kinh Tin Kính không, có in ấn và phân phát Kinh Thánh không, có tranh đấu để đưa Kitô giáo vào địa vị độc tôn trong xã hội không...Ngài chỉ hỏi tôi có yêu thương những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thân cô thế, những người bị phân biệt vì những khác biệt của họ, những người khách lạ hay đặt vào hoàn cảnh hiện tại ở Mỹ, có yêu thương những người di cư, tỵ nạn không? Có lẽ nếu có trở lại trần gian một lần nữa và nhứt là nhập thể làm người ở Mỹ, không chừng Ngài sẽ hóa thân làm Nữ thần Tự Do...

Có người cho rằng những gì Tổng thống Trump làm là cần thiết, như những “liều thuốc đắng” để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Tôi e rằng đó không phải là những “liều thuốc đắng” mà chỉ là những “liều thuốc độc” hủy hoại đời sống của tất cả mọi người. Kitô giáo được gọi là Đạo của Tình thương. Người Kitô giáo sống trong quỹ đạo của Tình Thương. Vậy, Tình Thương đang ở đâu?

Tôi không biết một người như Donald Trump có hạnh phúc không nếu phải thức hầu như suốt đêm để phóng lên mạng Truth Social những lời rủa sả, hậm hực đầy hận thù. Tin Mừng của Chúa Giêsu không chỉ hứa hẹn cho tôi một thiên đàng ở đời sau, mà còn bảo đảm cho tôi niềm hạnh phúc ngay trên cõi đời này. Thật vậy, con người chỉ thật sự cảm nhận được hạnh phúc và bình an khi họ muốn yêu thương người khác bằng cách sống khoan nhượng, cảm thông, bao dung, tha thứ với mọi người. Và dĩ nhiên, nếu nhân loại còn có một tương lai thì tương lai đó chỉ có thể thuộc về lòng nhân ái!

Chu Văn

 

 

Chú thích

1. Kalyn Ngô, 53 ngày của Adolf Hitler và Một ngày của Donald Trump, Việt Báo 21/01/25.

2. Richard Dawkins, The God Delusion, Bantam Press, 2006. trg 277.

3. sđd

4. sđd

5. sđd

6. Elizabeth Bruenig, “A very Christian concept”, The Atlantic, February 9, 2025

7.Tara Sutter, Cardinal Dolan: Trump “takes his Christian faith seriously”, The Hill 12/23/24.

8. Rebecca Shabad, Donald Trump names his favorite Bible verse, CBS News April 14, 2016