Chu Văn
Thời đại dịch, ở đâu cũng thấy có những hiện tượng giống
nhau. Ở đâu cũng có chết chóc, ở đâu cũng có phong tỏa. Nhưng dường như chỉ có ở
Việt Nam mới có hiện tượng người dân bỏ chạy. “Chạy đến vô cùng”, như một tác
giả ở Sài Gòn đã chua xót ghi nhận. Chạy tứ phía. Già cũng chạy. Trẻ con mới 10
ngày tuổi cũng chạy. Chạy bằng mọi phương tiện, từ xe gắn máy đến xe đạp và
ngay cả đi bộ. Chạy đến gần cả ngàn cây số. Ngày chạy, đêm ngủ vất vưởng dọc đường.
“Lý do họ rời bỏ Sài Gòn, bởi không còn tin tưởng vào các chính sách chống dịch
của nhà cầm quyền, và cũng không đủ sức để cầm cự thêm nữa khi mất việc, không
còn gì để sống tiếp nay mai. Hẳn nhiên, chính quyền (thành phố) Hồ Chí Minh
đang nợ những con người này một lời xin lỗi, vì đã không cưu mang họ được, qua
những tháng ngày này, bất chấp việc tuyên truyền nói dối rằng luôn lo đủ cho mọi
người gặp khó khăn”(1).
Dạo đầu tháng Tư năm 2020, khi dịch bệnh mới bùng phát,
các nhà lãnh đạo đang ở “đỉnh cao trí tuệ loài người” đã tung ra tư tưởng và
phương châm hành động vô cùng có tính “sáng tạo”: “Chống dịch như chống giặc”.
Trên báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, tôi đọc được những lời dẫn giải về
phương châm này như sau: “Trước hết, do dịch COVID-19 là đại dịch toàn cầu, có
tốc độ lây lan nhanh, không chỉ gây thiệt hại trên mọi lãnh vực của đời sống
kinh tế-xã hội, mà còn khiến số người tử vong ngày càng cao; được coi là vấn đề
cấp bách nhất hiện nay”. “Thứ hai, đối với Việt Nam, “trong dịch có giặc”: Đó
là các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị thường xuyên lợi dụng việc
phòng chống dịch COVID-19 để chống phá cách mạng Việt Nam”(2). Hai tháng sau,
trong một bài nói chuyện tại Quốc Hội, thủ tướng lúc đó là ông Nguyễn Xuân Phúc
đã “nổ”: “Cột điện ở Mỹ mà biết đi sẽ về Việt Nam”(3).
Nay cột điện ở Mỹ chưa kịp về Việt Nam mà người dân trong
nước thì đã tháo chạy. Có người đã gọi đây là chuyến “di tản thứ ba” của lịch sử
Việt Nam(3). Nhưng theo tôi, đúng với phương châm “chống dịch là chống giặc” của
Việt Nam, việc người dân trong nước “tháo chạy” quả là một cuộc “chạy giặc”.
Bất cứ nơi nào trên thế giới, hễ có chiến tranh là có “chạy
giặc”. Nhưng có lẽ chưa có dân tộc nào “chạy giặc” nhiều cho bằng người Việt
Nam. Trong ký ức của tôi, kể từ năm 1954 đến nay, người dân Việt Nam “chạy giặc”
không biết bao nhiêu lần. 7 tuổi, tôi đã chứng kiến cảnh người Bắc “chạy giặc”
vô Nam. Từ đó cho đến năm 1975, tôi cũng đã chứng kiến không biết bao nhiêu lần,
hễ cứ mỗi lần có du kích hay cộng quân xuất hiện là người dân bỏ chạy. Tôi
không được tận mắt chứng kiến cuộc di tản của người Việt Nam sau ngày 30 tháng
Tư năm 1975, nhưng tại thành phố Nha Trang của tôi vào ngày mùng một tháng Tư
năm đó, tôi đã cảm nghiệm được thế nào là “chạy giặc”. Từ cao nguyên, từ những
vùng tuyến đầu của miền Trung, bằng mọi phương tiện, người ta đổ xô về Nha
Trang và từ đó bồng bế nhau, dẫm đạp lên nhau
để “chạy” bán sống bán chết vào Miền Nam.
Người dân Việt Nam đã “chạy giặc”. Và dĩ nhiên, “giặc” ở
đây chỉ có thể là “ giặc cộng”. Nơi nào lá cờ “ giải phóng” được giương lên,
nơi nào hai chữ “tự do” được hô hào, người dân Việt Nam liền “chạy giặc”!
Thành phố Sydney, thủ phủ của Tiểu bang New South Wales,
Úc Đại Lợi và những thị trấn ở vòng đai của thành phố này cũng như thủ phủ của
một số tiểu bang khác, hiện đang bị phong tỏa vì đại dịch. Bị cấm cố trong nhà
có lúc tôi cũng cảm thấy bị quẫn trí. Tôi thèm được tự do, nhứt là tự do lái xe
đi câu cá ở những nơi mình muốn. Thèm được tự do cho nên đầu óc tôi cứ lẩn quẩn
với hai chữ tự do.
Trong ngôn ngữ loài người có lẽ không có gì hàm hồ, bị đánh
tráo và “hãm hiếp” cho bằng hai chữ tự
do. Đối với những ai đã từng sống dưới một chế độ cộng sản, tự do hay giải
phóng chỉ đơn thuần có nghĩa là nô lệ, tù đày, kiềm kẹp và chạy giặc, mà cụ thể
là vượt biên, cũng đơn thuần có nghĩa là đi tìm tự do và sẵn sàng đánh đổi mạng
sống của mình để được tự do.
Tôi đã cảm nghiệm, đã nếm trải thế nào mới thực sự là tự
do kể từ khi được đặt chân vào trại tỵ nạn ở Galang, Nam Dương hồi cuối năm
1981. Khi vừa nhập trại, người tỵ nạn nào cũng nghe vọng lại từ một loa phóng
thanh: “Đây Galang, ngưỡng cửa của Tự Do và Tình người xin chào đón các bạn”. Kể
từ đó, ngoài quyền tự do thật sự, tôi còn nhận ra một hàm ý khác của tự do là
Tình người. Phải chăng , con người chỉ thực sự hiểu được thế nào là tự do khi họ cảm nghiệm và thực
thi tình người.
Là một người tỵ nạn, tôi đã hiểu được thế nào là tự do.
Nay trong cơn đại dịch, tôi lại bị buộc phải suy nghĩ về hai chữ tự do dưới một
ý nghĩa khác. Hầu như ở đâu cũng thế, hễ cứ có phong tỏa để phòng chống dịch là
có người đòi hỏi tự do. Điển hình là ở Mỹ. Buồn cười nhứt là dưới thời của Tổng
thống Donald Trump, khi có một số tiểu bang ban hành lệnh phong tỏa, một số người
đã xuống đường biểu tình chống lại các biện pháp phòng ngừa như đeo khẩu trang,
giữ giãn cách xã hội và tránh tụ tập đông người và ngay cả chích ngừa. Có người
còn lên kế hoạch bắt cóc những thống đốc nào ban hành lệnh phong tỏa. Riêng ông
tổng thống thì lại hô hào người dân đứng lên “giải phóng” những tiểu bang nào
ra lệnh phong tỏa(5). Nghĩ lại những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, cứ
nghe hai chữ “giải phóng” là tôi thấy run.
Cũng may, ở Úc Đại Lợi của tôi, chưa thấy ông Thủ tướng
Scott Morrison kêu gọi dân chúng xuống đường chống lại lệnh phong tỏa của các
tiểu bang. Nhưng theo dõi cảnh hàng ngàn người dân Sydney xuống đường chống
phong tỏa dạo cuối tháng Bảy vừa qua, tôi cũng cảm thấy “run” khi nhìn thấy
không một người nào trong đám đông đeo khẩu trang. Bên cạnh một số biểu ngữ có
nội dung tôn giáo như “Máu Chúa Giêsu là thuốc chủng ngừa của tôi” (The blood
of Jesus is my vaccine), tôi còn đọc được “mấy không” trên những chiếc áo thun
của đoàn người biểu tình như “không đeo khẩu trang” (unmasked), “không xét nghiệm”
(untested), “không chích ngừa” (unvaxxed), “không sợ” (unafraid)...Các cuộc điều
tra của cơ quan y tế ở Úc đã cho thấy: những cuộc biểu tình chống lại lệnh
phong tỏa như thế là đầu mối của những cuộc lây lan vô tội vạ. Hầu hết báo chí và các cơ quan truyền thông Úc đều gọi
những người tham gia biểu tình như thế là ngu xuẩn và ích kỷ (idiotic and
selfish).
“Ngu xuẩn” là phải bởi vì người ta lao mình vào cửa tử vì
nghĩ rằng tự do là muốn làm gì thì làm. “Ích kỷ” là bởi người ta không nghĩ đến
những hệ lụy mà hành động đòi hỏi tự do của mình có thể có đối với người khác.
Không gì “ngu xuẩn” và “ích kỷ” khi đòi hỏi cho bằng được thứ tự do muốn làm gì
thì làm!
Suy nghĩ về hai chữ tự do, tôi cũng thường nghĩ đến một
trong những triết gia nổi bật nhứt của chủ nghĩa hiện sinh là Jean Paul Sartre
(1905-1980). Trong một trong những tác phẩm tiêu biểu nhứt của ông là “Hữu thể
và Hư vô” (L’Etre et le Néant) xuất bản hồi năm 1943, ông có viết một câu: “con
người bị kết án phải được tự do” (l’homme est condamné à être libre). Thú thật,
cho tới nay tôi vẫn chưa hiểu được hoàn toàn một tư tưởng cao siêu như thế.
Cũng như Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã từng thú nhận khi viết về tác giả Phạm
Công Thiện (1941-2011) “ông là người có thể làm cho độc giả đọc ông một cách
thích thú, say mê và thán phục mặc dù, khi gấp sách lại, người ta hoàn toàn
không hiểu là ông nói cái gì cả”, cũng thế, tôi cũng đã từng say mê triết gia
Jean Paul Sartre, nhưng hiểu được tư tưởng của ông về thế nào là tự do, “chết
liền”! Về triết gia nổi tiếng này, tôi
chỉ biết có một số biến chuyển chính trị đáng chú ý: ông đã từng say mê chủ
nghĩa cộng sản. Tuy không bao giờ gia nhập đảng cộng sản Pháp, ông thường lên
tiếng ủng hộ Liên Xô và những chính sách của chế độ cộng sản Nga. Năm 1954, ông
sang Nga để thấy tận mắt thế nào là xã hội
chủ nghĩa. Nhưng 2 năm sau, tức năm 1956, khi Liên Xô đem quân sang xâm chiếm
Hung Gia Lợi, Jean Paul Sartre đã mạnh mẽ lên án đế quốc đỏ và năm 1968, khi
Liên Xô đưa quân sang đè bẹp cuộc nổi dậy “Mùa Xuân Praha” ở Tiệp Khắc, ông mới
thực sự giã từ giấc mơ xã hội chủ nghĩa. Và năm 1979, cảm động không ít khi ông cùng với các nhà trí thức Pháp tham
gia phát động phong trào cứu vớt người Việt tỵ nạn cộng sản. Hai chữ tự do mà
ông đã từng nêu cao có lẽ giờ đây đã gắn liền với tình người.
Trong cơn đại dịch, tôi ý thức về tự do của tôi hơn bao
giờ hết. Cái lẽ thường và lý trí lúc nào cũng mách bảo tôi, như ai đó đã nói, rằng
tự do của tôi chấm dứt khi nó chạm đến mũi của người khác. Ký giả Mỹ gốc Do
Thái Hannah Arendt (1906-1975), người đã từng sống dưới chế độ Đức Quốc Xã Đức,
đã nhắc nhở tôi điều đó. Trong cuốn sách có tựa đề “Con người trong thời kỳ đen
tối” (Men in Dark Times), bà cảnh cáo chúng ta không nên rút lui vào vỏ ốc của
mình . Bà nhắc lại rằng theo người La Mã thời xa xưa, sống là “sống giữa người
khác” và chết là “thôi hiện hữu giữa người khác”. Theo bà, co cụm trong vỏ ốc
riêng tư của mình, nghĩa là chỉ nghĩ đến mình, là đánh mất nhân tính của mình.
Đây chính là chân lý mà tôi đã cảm nhận được khi đặt chân đến trại Galang, Nam Dương, “ngưỡng cửa của Tự do và
Tình người” để khởi đầu cuộc hành trình làm người tỵ nạn và cố gắng sống như một
người tự do thật sự.
Chú thích:
1.Nguyễn Tuấn Khanh: chạy đến vô cùng. http://www.danchimviet.info/chay-den-vo-cung/08/2021/23538/
2.Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Chống dịch như chống
giặc” https://dangcongsan.vn/tieu-diem/chong-dich-nhu-chong-giac-551842.html
3. Kalynh Ngô,chuyến “ di tản thứ ba” của lịch sử Việt
Nam, Kalynh Ngô/Người Việt https://www.nguoi-viet.com/viet-nam/chuyen-di-tan-thu-ba-cua-lich-su-viet-nam-bo-chay-khoi-sai-gon/
4.Đài Á Châu Tự Do https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vietnamese-people-in-the-us-have-no-intention-of-settling-down-in-vn-dt-06092020140437.html
5. https://www.abc.net.au/news/2020-04-18/usa-protests-for-coronavirus-reopening-after-donald-trump-tweet/12160930
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét