Từ ngày bỏ nước ra đi, do không được sống
gần các cộng đồng người Việt hải ngoại, tôi ít có dịp “mừng” những ngày Tết truyền
thống của dân tộc. Tuy nhiên, mỗi dịp đầu năm Âm lịch, tôi cũng “ăn Tết” theo cách thế riêng của tôi.
Ngôn ngữ Việt nam thật độc đáo: chúng ta
không “cử hành” hay “mừng” ngày đầu năm, mà lại nói “ăn tết”.
Ai cũng có quyền tự hào về ngôn ngữ của
dân tộc mình. Mỗi ngôn ngữ đều có cái “hồn” và nét độc đáo riêng mà không một
ngôn ngữ nào có thể thay thế được.
Một trong những nét độc đáo của tiếng Việt
hẳn phải là “âm điệu” của nó. Với tai người ngoại quốc, thì người Việt nam nói nghe
như “hát”. Lần đầu tiên ra chợ, nghe hai bà bán cá cãi nhau, người ngoại quốc
tưởng họ đang hát là chuyện có thật! Ngay cả khóc lóc ở nghĩa trang mà cũng còn
có vần có điệu nữa là!
Một tác giả (không rõ là ngoại quốc hay Việt
nam) ký tên là Rene Pazzi đã viết một cuốn sách có tựa đề “Người Việt đáng yêu”, trong đó ông nói đến tinh thần uyển chuyển và
tế nhị của ngôn ngữ Việt như sau: “Ngôn
ngữ Việt nam là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có nhiều giọng điệu cung bậc…
Phải
nghe người dân mỗi miền, người Bắc, hay Trung, hay Nam hát những dân ca quen
thuộc với tiếng nói thuần túy và giọng thuần túy của họ, chúng ta mới thấy ý vị
của giọng nói ấy đậm đà chừng nào.
Sự
phong phú trong âm thanh lại được thay đổi qua nhiều miền đất của quê hương họ…
Nếu
phải tô mầu các giọng nói ấy, người ta có thể vẽ một bản đồ Việt nam thật đẹp. Có
miền mầu xanh, có miền mầu hồng, có miền mầu trắng, có miền mầu vàng, đấy là
chưa nói mức độ đậm lợt khác nhau…” (1).
Sau năm 75, nhiều người đã có lý để nói rằng
tiếng Việt đã bị “hãm hiếp” vì bị o ép đến độ mất đi âm điệu của nó. Trước kia,
người Việt đâu có nói cộc lốc như “ăn tốt”, “làm tốt”, “học tốt”…mà luôn đệm
vào đàng sau chữ “tốt” cái âm thanh “lành” “đẹp” cho nó êm tai. Trước kia, người
ta cũng chả nói “học sinh trai”, “học sinh gái”, “bộ đội gái”… “Nam sinh, nữ
sinh, nữ quân nhân” nghe nó chẳng êm tai và tôn trọng hơn sao?
Về những từ hay âm điệu được ghép vào chữ
“ăn”, thì quả thật chẳng có ngôn ngữ nào phong phú cho bằng tiếng Việt. Giở bất
cứ quyển tự điển tiếng Việt nào, tôi cũng đếm được gần 60 từ kép có chữ ăn: từ
“ăn chay, ăn chận, ăn chẹt, ăn chơi, ăn gian, ăn hại” đến “ăn mặc, ăn nằm, ăn
sương, ăn nắng…”
Người Việt nam quả có óc sáng tạo trong
ngôn ngữ. Ngày nay ở Việt nam, ở đâu cũng thấy có hai chữ “văn hóa”, từ khu phố văn hóa, làng văn hóa, nhà văn hóa đến văn hóa
ứng xử, văn hóa ăn uống, văn hóa chửi…Ngay cả như chữ “ôm” cũng được cho “ôm” vào bất cứ những gì có thể “ôm” được. Trước
năm 75, người Việt nam chỉ nghe nói đến “xe ôm” hay cùng lắm là “bia ôm”, nay lại
có cả “thịt chó ôm”, “hớt tóc ôm”, “ngủ trưa ôm”…đủ thứ “ôm”.
Nhưng đó là những “sáng tạo” mới trong
ngôn ngữ Việt nam. Riêng động từ “ăn” thì ngay từ ngàn xưa, ông bà tổ tiên
chúng ta đã biết chế biến để nó có thể đi với bất cứ từ nào.
Trong bài viết có tựa đề “Miếng ăn trong văn hóa Việt nam” (2),
nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc nói rằng “hình như” “dân tộc Việt nam chỉ có một ám ảnh lớn: Ăn”. Theo tác
giả, bảo rằng văn hóa Việt nam quá coi trọng miếng ăn thì có vẻ hơi kỳ nhưng
không chừng đó lại là sự thật. Và tác giả đưa ra một số bằng chứng cho luận đề
của ông như: muốn truyền ngôi cho con, vua Hùng đã cho tổ chức thi nấu ăn để
xem người nào làm được món ăn ngon nhứt; ông Thánh Gióng nhờ ăn mà lớn như thổi
để, từ một đứa bé, biến thành một trang thanh niên khôi ngô, dũng cảm; trong
tín ngưỡng dân gian Việt nam, cúng, tức dọn món ăn cho người chết, là chuyện rất
phổ biến; ông thần được chú ý tới nhiều nhứt là Vua Bếp, tức ông Táo…
Người Việt nam quả “coi trọng” miếng ăn.
Hình ảnh tôi vẫn giữ mãi trong ký ức của
tuổi thơ đó là cảnh hàng hàng lớp lớp những bà mẹ quê ngay từ sáng sớm đã gánh
gồng đi qua hằng bao nhiêu cây số đến chợ, trao đổi, mua bán để rồi mãi đến gần
trưa mới trở về nhà lo miếng cơm cho chồng con. Suốt một ngày sinh hoạt, người
mẹ quê chỉ quanh quẩn trong xó bếp. Miếng ăn quả đã chiếm hầu hết thời giờ của
người dân quê. Người dân quê làm để có cái ăn và ăn để có đủ sức làm. Lẩn quẩn
trong cái vòng “làm ăn” ấy cho nên có bảo rằng người Việt nam “xem trọng” cái
ăn cũng chẳng phải là “cường điệu” chút nào.
Tuy nhiên, lo toan cho cái ăn, xem trọng
cái ăn, nhưng người Việt nam vẫn luôn đề cao cảnh giác bởi vì “miếng ăn là miếng tồi tàn”. Xung quanh
bàn ăn, ông bà tổ tiên chúng ta đã phát huy được một thứ minh triết thật sâu sắc:
chính xuyên qua cái ăn mà con người thể hiện tư cách làm người của mình. Cái
ăn, như tác giả Nguyễn Hưng Quốc ghi nhận, chỉ “cách xử thế”. Chính vì thế mà chúng ta mới nói đến chuyện “ăn trên ngồi trốc, ăn cháo đá bát, ăn xổi ở
thì hay cố đấm ăn xôi”. Vì tư
cách con người và cách đối nhân xử thế được thể hiện qua cái ăn và cách ăn, mà
ông bà tổ tiên chúng ta mới coi “học ăn” là bài học vỡ lòng quan trọng nhứt
trong các thứ học: học ăn rồi mới tới học nói, học gói, học mở…Lớn lên thì cũng
phải giữ ý tứ để biết “ăn coi nồi ngồi
coi hướng”.
Vì cái ăn thể hiện tư cách con người cho
nên đối với ông bà tổ tiên chúng ta, bàn ăn, chỗ ăn, lúc ăn đều được xem là “thánh
thiêng”. Trời đánh mà cũng phải tránh bữa ăn thì đủ biết cái ăn của người
Việt nam đáng trân trọng như thế nào. Ngồi xếp bằng trên bộ ván gỗ, trên chõng
tre, quanh bàn ăn hay ngồi chồm hổm dưới đất, người Việt nam qui tụ trong bữa
ăn là để “chia sẻ” cho nhau. Một nhà thừa sai ngoại quốc nọ nói rằng hình ảnh đẹp
nhứt trong bữa ăn của người Việt nam chính là cái cảnh mọi người cùng chấm
chung một chén nước mắm, cùng xẻ chung một con cá trong một dĩa, cùng chan
chung một bát canh…Ăn thiết yếu là “ăn cùng”, “ăn với” người khác cho nên ăn
cũng là chia sẻ. Như một phép lạ, thức ăn của người Việt nam xem ra chẳng bao
giờ thiếu: một người khách lỡ độ đường ghé tạt vào nhà nhằm đúng bữa ăn ư? Chỉ
cần dọn thêm một cái chén, một đôi đũa là giải quyết được vấn đề!
Ăn không chỉ là chia sẻ thức ăn, mà là
chia sẻ niềm vui với nhau. Cơm không lành
canh không ngọt là điều chẳng ai muốn. Người Việt nam thích vui vì được
chia sẻ. Đi ruộng bắt được một con cá lóc, một con ếch, một con rắn hay một con
chuột cũng đủ để làm một món nhậu và mời ông bạn láng giềng sang chung vui sau
một ngày làm lụng vất vả. Kẹt lắm, một trái khế hay trái xoài xanh cũng đủ để
lai rai vài xị.
Quả thật, người Việt nam thích sống vui. Cố
linh mục Gildo Dominici, người Ý có
tên Việt nam là “Đỗ Minh Trí”,đã từng
làm việc tại Việt nam trước 75 và sau đó phục vụ trong các trại tỵ nạn Galang,
Nam Dương và Bataan, Phi luật tân. Trong tác phẩm có tựa đề “Việt nam quê hương tôi”, vị linh mục này
đã viết về Ngày Tết của người Việt nam như sau: “Ngày Tết, không một người nào có vẻ nghèo cả! Mọi người đều có một
chút gì để mà “ăn Tết”. Người ta chấp nhận mang công mắc nợ để rồi sau đó sẽ vất
vả làm lụng để trả nợ, nhưng vào Ngày Tết người ta cần phải tận hưởng. Mọi người
đều có quyền ăn Tết”, mọi người đều cảm thấy có bổn phận vui hưởng Tết.
Bị
vây hãm bởi chiến tranh, nghèo nàn và đau khổ, người ta mong chờ ngày Tết để được
sống thật sự vài ngày! Tết chính là cái khoảng thời gian kỳ diệu, chính là một
thời kỳ mà tất cả mọi người có thể thưởng thức được một chút gì hấp dẫn của kiếp
sống con người”.
Nêu lên câu hỏi: “Vậy, sự quyến rũ của Ngày Tết bắt nguồn từ đâu?” linh mục Dominici trả lời: “Câu trả lời rất dễ dàng. Vẻ duyên dáng quyến rũ của ngày Tết đã do
chính người ta tạo ra! Ngày Tết rất dễ thương chính là vì người Việt nam rất dễ
thương...Người Việt nam đã tạo ra một ngày lễ để diễn tả hình ảnh của chính con
người họ. Không một điều gì khác hơn có thể diễn đạt được tinh thần của người
Việt nam bằng ngày Tết cả!
Tất
cả những người ngoại quốc đã từng sống ở Việt nam đều nhận thấy nơi con người
Việt nam có một cái gì lôi cuốn họ: tốt bụng, lịch thiệp, nhã nhặn, lễ phép, dễ
thương!”
(sđd).
Đọc những dòng trên đây, tôi cảm thấy hãnh
diện, ấm lòng và nhứt là “vui như ba ngày
Tết”. Thật vậy, chẳng có lúc nào vui cho bằng “ba ngày Tết”, nhứt là đối với
trẻ con. Trong những kỷ niệm của tuổi thơ, tôi vẫn nhớ mãi những ngày Tết trước
khi diễn ra cuộc đảo chánh sát hại cố tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước thập niên
60 và ngay cả những năm đầu của thập niên này, khi các hàng rào ấp chiến lược
chưa bị phá vỡ, các làng quê đã thực sự hưởng cảnh thái bình: đêm đến không có
giới nghiêm, người dân có thể vui chơi cả đêm. Người dân quê vẫn còn lấy cả
tháng Giêng để “ăn chơi”. Cả tháng, cứ đêm đến, trẻ con chúng tôi đạp xe đạp đi
từ làng này sang thôn khác để xem hát bài chòi. Có cả một tháng vui chơi như thế
là để nhắc nhở con người Việt nam lam lũ quanh năm vì cái ăn rằng “con người được tạo dựng để thụ hưởng niềm
vui và hạnh phúc, chứ không phải để đau khổ và bất hạnh. Cuộc sống của một dân
tộc sẽ trở nên phong phú và nhân bản hơn nếu cái dáng dấp bi thảm của khổ đau
được quân bình với hân hoan và hạnh phúc” (sđd)
Quân bình giữa công việc và giải trí: đó
là nét nổi bật trong cuộc sống của người Việt nam, mà Tết là một biểu trưng. Chính
nhờ thế quân bình giữa cuộc sống vất vả và việc vui hưởng cuộc sống mà người Việt
nam xem ra có được một giây thần kinh rất vững chắc. Bất cứ người ngoại quốc
nào phục vụ trong các trại tỵ nạn Việt nam tại các nước đông nam Á từ cuối thập
niên 70 đến đầu thập niên 90 cũng đều kinh ngạc về số lượng rất thấp những người
bị rối loạn tâm trí giữa một số lượng đông đảo người tỵ nạn đang sống trong một
tình cảnh bi đát.
Năm nay, cũng như rất nhiều năm trong cuộc
sống ly hương, tôi không biết thế nào là bánh chưng, bánh tét, hay kẹo mứt. Trong
nhà tôi cũng không có mâm quả “cầu dừa đủ
xài”. Tôi cũng chưa bao giờ một lần thưởng thức món “thịt mỡ dưa hành câu đối Tết”. Còn cảnh “ngoài hiên đêm trước một cành mai” thì chắc phải đến Tết Congo hay
Maroc tôi mới có được ở nơi đất khách quê người này. Nhưng cũng như mọi năm,
năm nay tôi cũng “ăn Tết” theo cách
thế của tôi: tôi sẽ cố gắng tận hưởng từng khoảnh khắc hiện tại như một ân lộc
Trời ban; tôi sẽ sống mỗi ngày như một ngày Tết… Tôi nghĩ đó là bí quyết hạnh
phúc mà ông bà tổ tiên muốn để lại cho con cháu khi “bày ra Tết Nhứt”.
1. Doãn Quốc Sỹ, Người Việt đáng yêu
2. Việt luận 20/10/09
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét